Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2014
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2014 theo giá so sánh 2010 ước tính đạt 830 nghìn tỷ đồng, tăng 3,9% so với năm 2013, bao gồm: Nông nghiệp đạt 617,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2,9%; lâm nghiệp đạt 23,9 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%; thủy sản đạt 188,6 nghìn tỷ đồng, tăng 6,8%.
Nông nghiệp
Sản lượng lúa cả năm 2014 ước tính đạt gần 45 triệu tấn, tăng 955,2 nghìn tấn so với năm trước, trong đó diện tích gieo trồng ước tính đạt 7,8 triệu ha, giảm 88,8 nghìn ha; năng suất đạt 57,6 tạ/ha, tăng 1,9 tạ/ha. Nếu tính thêm 5,2 triệu tấn ngô thì tổng sản lượng lương thực có hạt năm nay ước tính đạt 50,2 triệu tấn, tăng 956 nghìn tấn so với năm 2013.
Trong sản xuất lúa, diện tích gieo trồng lúa đông xuân đạt 3116,5 nghìn ha, tăng 10,9 nghìn ha so với vụ đông xuân trước; sản lượng đạt hơn 20,8 triệu tấn, tăng 780,8 nghìn tấn do năng suất đạt 66,9 tạ/ha, tăng 2,3 tạ/ha. Diện tích gieo trồng lúa hè thu đạt 2734,1 nghìn ha, giảm 76,7 nghìn ha; sản lượng đạt 14,5 triệu tấn, giảm 93,1 nghìn tấn. Diện tích gieo trồng lúa mùa đạt 1963,1 nghìn ha, giảm 23 nghìn ha so với vụ mùa năm 2013, trong đó các địa phương phía Nam giảm hơn 20 nghìn ha do thực hiện chuyển đổi cơ cấu mùa vụ và cây trồng. Tuy nhiên, do thời tiết thuận lợi nên năng suất lúa mùa cả nước ước tính đạt 49 tạ/ha, tăng 1,9 tạ/ha và sản lượng ước tính đạt 9,6 triệu tấn, tăng 267,5 nghìn tấn. Sản lượng lúa mùa của các địa phương phía Bắc đạt 5,9 triệu tấn, tăng 269,3 nghìn tấn; năng suất đạt 49,9 tạ/ha, tăng 2,4 tạ/ha. Sản lượng lúa mùa của các địa phương phía Nam đạt 3,7 triệu tấn, xấp xỉ năm trước; năng suất đạt 47,6 tạ/ha, tăng 1,2 tạ/ha.
Sản lượng một số cây hàng năm giảm so với năm 2013 một mặt do điều kiện thời tiết không thuận lợi ở các địa phương phía Bắc, mặt khác do giá bán và thị trường tiêu thụ không ổn định ở các địa phương phía Nam. Ước tính sản lượng lạc cả năm đạt 454,5 nghìn tấn, giảm 37,4 nghìn tấn; đỗ tương đạt 157,9 nghìn tấn, giảm 10,3 nghìn tấn; đậu 165,6 nghìn tấn, giảm 3,4 nghìn tấn. Riêng sản lượng rau đạt 15,4 triệu tấn, tăng 792 nghìn tấn.
Cây công nghiệp lâu năm tiếp tục phát triển theo hướng thay đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện canh tác của từng vùng để mang lại hiệu quả kinh tế cao, phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Diện tích cho sản phẩm và sản lượng một số cây chủ yếu tăng so với năm 2013, trong đó diện tích chè ước tính đạt 132,1 nghìn ha, tăng 1,8%, sản lượng đạt 962,5 nghìn tấn, tăng 2,8%; cà phê diện tích đạt 641,7 nghìn ha, tăng 0,7%, sản lượng đạt 1395,6 nghìn tấn, tăng 1%; cao su diện tích đạt 977,7 nghìn ha, tăng 2%, sản lượng đạt 953,7 nghìn tấn, tăng 0,7%; hồ tiêu diện tích đạt 83,8 nghìn ha, tăng 21,4%, sản lượng đạt 147,4 nghìn tấn, tăng 13%.
Sản lượng một số cây ăn quả đạt khá do thời tiết thuận lợi, trong đó sản lượng nho ước tính đạt 20,7 nghìn tấn, tăng 7,8% so với năm 2013; cam đạt 572,9 nghìn tấn, tăng 7,7%; vải, chôm chôm đạt 697,1 nghìn tấn, tăng 10,8%; xoài đạt 688,9 nghìn tấn, tăng 1,7%.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm những tháng cuối năm có nhiều thuận lợi và phát triển tốt do giá bán sản phẩm chăn nuôi luôn ở mức cao và ổn định, dịch bệnh được khống chế trong nhiều tháng qua. Đàn trâu cả nước năm nay có 2,5 triệu con, giảm 1,9% so với năm 2013 do điều kiện bãi chăn thả bị thu hẹp; đàn bò có 5,2 triệu con, tăng 1,5%, riêng chăn nuôi bò sữa tiếp tục tăng nhanh, tổng đàn bò sữa năm 2014 của cả nước là 227,6 nghìn con, tăng 22,1% so với năm 2013; đàn lợn có 26,8 triệu con, tăng 1,9%; đàn gia cầm có 327,7 triệu con, tăng 3,2% (Đàn gà 246 triệu con, tăng 4,9%). Sản lượng thịt hơi các loại năm nay ước tính đạt khá, trong đó sản lượng thịt trâu đạt 86,9 nghìn tấn, tăng 1,6%; sản lượng thịt bò đạt 292,9 nghìn tấn, tăng 2,6%; sản lượng thịt lợn đạt 3,4 triệu tấn, tăng 3,1%; sản lượng thịt gia cầm đạt 875 nghìn tấn, tăng 5,3%.
Tính đến ngày 25/12/2014, dịch lợn tai xanh đã được khống chế; dịch bệnh khác chưa qua 21 ngày còn ở các địa phương: Dịch cúm gia cầm ở tỉnh Quảng Ngãi; dịch lở mồm long móng ở tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Hà Tĩnh và Đắk Nông.
Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng tập trung năm 2014 ước tính đạt 226,1 nghìn ha, tăng 6,1% so với năm 2013, trong đó một số địa phương có diện tích rừng trồng mới tập trung nhiều: Nghệ An 16 nghìn ha; Quảng Nam 14,4 nghìn ha; Quảng Ngãi 14,2 nghìn ha; Tuyên Quang 13,8 nghìn ha; Quảng Ninh 13,3 nghìn ha; Yên Bái 12,3 nghìn ha. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán cả năm đạt 155,3 triệu cây, bằng 98,7% năm trước. Sản lượng gỗ khai thác đạt 6456 nghìn m3, tăng khá ở mức 9,3% so với năm 2013, chủ yếu do nhu cầu của thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước đều tăng cao. Một số địa phương có sản lượng gỗ khai thác tăng nhiều so với năm trước: Quảng Nam tăng 51%; Quảng Ngãi tăng 49,5%; Thừa Thiên Huế tăng 31,2%; Quảng Ninh tăng 23,3%; Bình Định tăng 19,6%; Quảng Trị tăng 11%. Tại một số địa phương, nhiều nhà máy sản xuất sản phẩm từ gỗ đang thực hiện cơ chế liên doanh, liên kết với các hộ gia đình để trồng rừng đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu nhằm bao tiêu sản phẩm.
Thời tiết nắng hạn kéo dài trong năm gây ra hiện tượng cháy rừng khá nghiêm trọng tại một số địa phương ở khu vực miền núi phía Bắc và duyên hải miền Trung. Tổng diện tích rừng bị thiệt hại năm 2014 là 4028 ha, tăng 105% so với năm trước, bao gồm: Diện tích rừng bị cháy 3157 ha, tăng 173,1%; diện tích rừng bị chặt phá 871 ha, tăng 7,7%. Một số tỉnh có diện tích rừng bị cháy nhiều: Yên Bái 692 ha; Bình Định 414 ha; Phú Yên 317 ha; Quảng Trị 236 ha; Lai Châu 211 ha; Nghệ An 176 ha; Đà Nẵng 146 ha; Sơn La 119 ha; Bình Thuận 106 ha. Một số địa phương có diện tích rừng bị chặt, phá nhiều: Đắk Nông 133 ha; Sơn La 109 ha; Lâm Đồng 91 ha; Bắc Giang 89 ha; Đắk Lắk 83 ha.
Thủy sản
Sản lượng thuỷ sản năm 2014 ước tính đạt 6332,5 nghìn tấn, tăng 5,2% so với năm trước, trong đó cá đạt 4571 nghìn tấn, tăng 4,5%; tôm đạt 790,5 nghìn tấn, tăng 9,3%.
Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng cả năm ước tính đạt 3413,3 nghìn tấn, tăng 6,1% so với năm trước, trong đó cá 2449,1 nghìn tấn, tăng 4,1%; tôm 631,5 nghìn tấn, tăng 12,7%. Sản lượng tôm nuôi tăng mạnh chủ yếu do nhiều địa phương thực hiện chuyển đổi phần lớn diện tích nuôi tôm sú sang nuôi tôm thẻ chân trắng, đồng thời tăng diện tích nuôi thâm canh và bán thâm canh, giảm dần diện tích nuôi quảng canh. So với năm trước, diện tích thu hoạch tôm sú giảm 19 nghìn ha, diện tích thu hoạch tôm thẻ chân trắng tăng 28 nghìn ha. Sản lượng tôm thẻ chân trắng tăng mạnh, ước tính đạt 349 nghìn tấn, tăng 36,3% so với năm trước, trong khi sản lượng tôm sú thu hoạch trong năm đạt 252 nghìn tấn, giảm 8,7% so với năm 2013. Nuôi cá tra tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng diện tích thả nuôi ở khu vực doanh nghiệp và giảm diện tích thả nuôi ở khu vực hộ gia đình. Sản xuất cá tra có dấu hiệu được cải thiện khi giá cá tra tăng so với năm 2013, diện tích thả nuôi đang dần trở lại ổn định. Sản lượng cá tra năm nay ước tính đạt 1158,3 nghìn tấn, giảm 3,1% so với năm trước.
Khai thác thủy sản năm nay có nhiều thuận lợi về thời tiết với nắng ấm kéo dài, ít bão nên sản lượng thủy sản khai thác năm nay tăng khá, ước tính đạt 2919,2 nghìn tấn, tăng 4,1% so với năm trước, trong đó khai thác biển đạt 2711,1 nghìn tấn, tăng 4%. Nghề câu cá ngừ đại dương đang được các ngành chức năng quan tâm và hỗ trợ trong áp dụng khoa học kỹ thuật, cải tiến phương pháp thu câu của Nhật Bản, bảo quản sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả và tính bền vững trong hoạt động khai thác.