Sứ mệnh lịch sử đầy tự hào từ những ngày đầu thành lập Kho bạc Nhà nước

Ngọc Tú

Chặng đường 80 năm xây dựng và phát triển ngành Tài chính (28/8/1945 - 28/8/2025) nói chung và quá trình hình thành và phát triển Kho bạc Nhà nước (KBNN) nói riêng qua các giai đoạn lịch sử đã chứng kiến những sự kiện nổi bật, ghi lại những khó khăn, vất vả nhưng rất đỗi tự hào, đặc biệt là giai đoạn từ ngày đầu thành lập đến giai đoạn tái thành lập tổ chức KBNN thuộc Bộ Tài chính (1990 - 2000).

Lễ đón nhận Huân chương Lao động hạng hai của hệ thống Kho bạc Nhà nước năm 1995.
Lễ đón nhận Huân chương Lao động hạng hai của hệ thống Kho bạc Nhà nước năm 1995.

Từ những ngày đầu thành lập

Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi, để chuẩn bị cho sự ra đời và hoạt động của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, ngày 28/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Cách mạng Lâm thời quyết định thành lập ngành Tài chính của nước Việt Nam độc lập.

Để xây dựng một cơ quan chuyên môn, phụ trách việc nghiên cứu và giải quyết các vấn đề tài chính - tiền tệ, ngày 29/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 75/SL thành lập Nha Ngân khố trực thuộc Bộ Tài chính.

Theo đó, Nha Ngân khố có nhiệm vụ chủ yếu là: tập trung quản lý các khoản thu về thuế; đảm phụ quốc phòng (ủng hộ quân đội); thu tiền công phiếu kháng chiến; quản lý và giám sát các khoản cấp phát theo dự toán được duyệt; chịu trách nhiệm về việc xác nhận và thanh toán kinh phí cho các đơn vị sử dụng ngân sách; làm thủ tục quyết toán với cơ quan tài chính; tổ chức phát hành giấy bạc Việt Nam (tiền tài chính) trong toàn quốc…

Đến những năm đầu thập kỷ 50 của thế kỷ XX, hoàn cảnh đất nước nói chung và nền tài chính nói riêng đứng trước muôn vàn khó khăn (do nền sản xuất và lưu thông hàng hóa vẫn chưa phát triển, thu ngân sách thường xuyên không đủ chi, lạm phát trầm trọng,…).

Trước tình hình đó, ngày 06/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, đồng thời giải thể Nha Ngân khố và Nha Tín dụng sản xuất trực thuộc Bộ Tài chính.

Để cụ thể hóa chức năng và nhiệm vụ của cơ quan quản lý quỹ NSNN, ngày 20/7/1951, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 107/TTg thành lập KBNN đặt trong Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và thuộc quyền quản trị của Bộ Tài chính. Nhiệm vụ chủ yếu của KBNN là quản lý thu, chi quỹ NSNN.

Trong hơn 10 năm tồn tại và hoạt động (1951 - 1963), dưới sự lãnh đạo và quản lý trực tiếp của Bộ Tài chính và Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, hệ thống KBNN đã hoàn thành tốt việc từng bước xây dựng, củng cố chế độ tiền tệ độc lập tự chủ và đấu tranh với địch trên mặt trận tài chính - tiền tệ. KBNN đã tập trung nguồn thu của NSNN; cấp phát kịp thời nhu cầu chi tiêu của cuộc kháng chiến, góp phần đảm bảo sức chiến đấu của bộ đội và sự hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương; phối hợp thực hiện nhiệm vụ phát hành đồng tiền Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và thu hồi đổi tiền Ngân hàng Đông Dương của địch.

Đến những năm đầu 60 của thế kỷ 20, cùng với việc thay đổi chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của các Bộ, Ngành ở Trung ương, ngày 26/10/1961, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 171/CP quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Ngân hàng Nhà nước (thay thế Sắc lệnh số 15/SL ngày 06/5/1951 về việc thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam) và KBNN tiếp tục trực thuộc Ngân hàng Nhà nước. Sau đó, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 113/CP ngày 27/7/1964 thành lập Vụ Quản lý quỹ NSNN thuộc Ngân hàng Nhà nước (thay thế Quyết định số 107/TTg ngày 20/7/1951 của Thủ tướng Chính phủ).

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp để quản lý ngân khố của chính quyền Sài Gòn, đồng thời thiết lập bộ phận Kho bạc ở các chi nhánh và chi điếm Ngân hàng, đưa công tác quản lý quỹ NSNN ở các tỉnh phía Nam đi vào nền nếp.

Đến tái thành lập tổ chức Kho bạc Nhà nước thuộc Bộ Tài chính (1990 - 2000)

Ngày 15/10/1988, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số 155/HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Bộ Tài chính, trong đó quy định Bộ Tài chính có nhiệm vụ “trực tiếp tổ chức quản lý quỹ NSNN và các quỹ dự trữ tài chính của Nhà nước, kể cả vàng bạc, kim khí quý, đá quý, ngoại tệ của Nhà nước”.

Từ đó, Bộ Tài chính đã thành lập Tổ nghiên cứu xây dựng Đề án thành lập KBNN với nhiệm vụ: (i) tìm hiểu những việc đã làm của Nha Ngân khố trực thuộc Bộ Tài chính trong thời gian từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến khi chuyển giao nhiệm vụ quản lý quỹ NSNN từ Bộ Tài chính sang Ngân hàng Quốc gia Việt Nam; (ii) nghiên cứu mô hình tổ chức và kinh nghiệm hoạt động của Kho bạc các nước, đặc biệt là mô hình Tổng cục Kế toán công tại Cộng hòa Pháp; (iii) xây dựng đề án thành lập hệ thống KBNN trực thuộc Bộ Tài chính để trình Chính phủ xem xét, quyết định.

Trên cơ sở đánh giá thực trạng và khảo sát mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống Tổng cục Kế toán công tại Cộng hòa Pháp, Bộ Tài chính đã nghiên cứu trình Chính phủ đề án xây dựng hệ thống KBNN. Theo đó, Kiên Giang và An Giang là 2 tỉnh đã được Bộ Tài chính lựa chọn và Ủy ban nhân dân các tỉnh thống nhất tổ chức thí điểm chuyển nhiệm vụ quản lý quỹ NSNN từ ngành Ngân hàng sang ngành Tài chính trên cơ sở thành lập cơ quan KBNN trực thuộc Sở Tài chính tỉnh.

Kết quả triển khai thí điểm đã khẳng định được sự cần thiết và tính đúng đắn của việc thành lập hệ thống KBNN trực thuộc Bộ Tài chính. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ Đề án và đến ngày 04/01/1990, Hội đồng Bộ trưởng đã ký Quyết định số 07/HĐBT thành lập hệ thống KBNN trực thuộc Bộ Tài chính.

Quyết định số 07/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) thành lập hệ thống KBNN trực thuộc Bộ Tài chính
Quyết định số 07/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) thành lập hệ thống KBNN trực thuộc Bộ Tài chính

Về tổ chức bộ máy, KBNN được tổ chức theo hệ thống dọc, thống nhất từ trung ương đến huyện (quận và cấp tương đương) phù hợp với cơ cấu tổ chức hành chính để phục vụ các yêu cầu quản lý ngân sách của từng cấp chính quyền. Cụ thể: ở Trung ương có Cục KBNN; ở tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương có Chi cục KBNN; ở huyện, quận và cấp tương đương có Chi nhánh KBNN.

Với việc chuẩn bị chu đáo và sự chỉ đạo quyết liệt, chặt chẽ của Lãnh đạo Bộ Tài chính, sự phối hợp tích cực của Ngân hàng Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt là sự quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của Ủy ban nhân dân các cấp có liên quan, từ ngày 01/4/1990, toàn bộ hệ thống KBNN đã đồng loạt đi vào hoạt động trên phạm vi cả nước theo đúng thời gian quy định của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Sau 5 năm xây dựng và trưởng thành, ngày 05/4/1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25/CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của KBNN (thay thế cho Quyết định số 07/HĐBT ngày 04/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng). Hệ thống KBNN tiếp tục được củng cố, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức tương xứng với vị thế của mình trong hệ thống các cơ quan Tài chính.

Cụ thể, KBNN là tổ chức thuộc Bộ Tài chính, có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước về quỹ NSNN (bao gồm cả quỹ ngoại tệ tập trung của Nhà nước); quỹ dự trữ tài chính nhà nước; tiền, tài sản tạm thu, tạm giữ; huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển.

Có thể thấy sau 10 năm tái lập, chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của hệ thống  KBNN đã được củng cố và hoàn thiện không ngừng, qua đó ngày càng hoàn thành tốt các nhiệm vụ luôn được mở rộng mà Đảng, Chính phủ và Bộ Tài chính giao trong giai đoạn này.

Công tác quản lý quỹ NSNN qua hệ thống KBNN đã được củng cố và có sự thay đổi về chất, đặc biệt là sau khi Luật NSNN ra đời và có hiệu lực (từ năm ngân sách 1997). Trên cơ sở đó, KBNN đã phối hợp với các cơ quan Thuế, Hải quan chuẩn bị lực lượng, phương tiện, bố trí các điểm thu cố định và lưu động, cải tiến, hoàn thiện quy trình thu NSNN, để tạo thuận lợi cho việc nộp các khoản thuế, phí, lệ phí vào KBNN một cách kịp thời và an toàn; đồng thời tổ chức hạch toán và phân chia số thu cho các cấp ngân sách theo luật định. Nguồn thu của NSNN được tập trung nhanh hơn, giúp cho cơ quan tài chính và chính quyền các cấp chủ động trong việc quản lý, điều hành ngân sách cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và trên cả nước.

Đối với công tác kiểm soát chi NSNN qua KBNN, trước khi có Luật NSNN (năm 1996) KBNN chủ yếu thực hiện xuất quỹ theo lệnh của cơ quan tài chính. Sau khi có Luật NSNN (năm 1996), KBNN đã kiểm tra, kiểm soát các khoản chi tiêu của đơn vị theo đúng các điều kiện chi đã được quy định trong Luật NSNN, từ đó giúp cho việc quản lý chi tiêu NSNN được chặt chẽ hơn, từng bước đi vào nề nếp và có hiệu quả.

Bên cạnh đó, trong giai đoạn này, KBNN cũng được giao nhiệm vụ cấp phát, cho vay một số chương trình mục tiêu, dự án như: chương trình cho vay giải quyết việc làm (Chương trình 120); chương trình trồng rừng (Chương trình 327, Dự án 5 triệu ha rừng); cấp phát vốn xây dựng đường dây tải điện 500 KV; chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi (Chương trình 135); vốn sự nghiệp kinh tế;… Thông qua việc triển khai thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia, hệ thống KBNN cũng góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Đất nước.   

Đến năm 2000, KBNN tiếp tục được giao thêm nhiệm vụ quản lý cấp phát và thanh toán toàn bộ nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản (theo Nghị định số 145/1999/NĐ-CP ngày 20/9/1999 của Chính phủ về việc tổ chức lại Tổng cục Đầu tư phát triển trực thuộc Bộ Tài chính). Từ thời điểm này, hệ thống KBNN đã thống nhất thực hiện toàn bộ các nhiệm vụ về kiểm soát chi NSNN (bao gồm cả chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển). 

Những kết quả đạt được nêu trên đã khẳng định việc thành lập hệ thống KBNN trực thuộc Bộ Tài chính là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý và điều hành NSNN. Để ghi nhận những đóng góp của tập thể công chức và viên chức trong hệ thống KBNN trong giai đoạn 1990 - 2000, Đảng và Nhà nước đã quyết định trao thưởng cho hệ thống KBNN các phần thưởng cao quý như: Huân chương Lao động hạng Nhì (năm 1995); Huân chương Độc lập hạng Ba (năm 2000).