Sức sống doanh nghiệp Việt

Thảo Nguyên

TCTC Online - Khác với dự báo lạc quan trước đó, năm 2010 đã trôi qua với không ít biến số bất lợi cho cộng đồng DN Việt Nam. Sự bất định của tỷ giá, lãi suất và chi phí đầu vào gia tăng là những lực cản lớn đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của bất kỳ loại hình DN nào. Dường như "bão" khủng hoảng kinh tế phải đến năm 2010 mới thực sự "ngấm", đặt ra cho mỗi DN những bài toán nan giải nhất.

Điều đáng mừng là hầu hết các loại hình DN Việt Nam đều đã tự đi tìm lời giải thích hợp cho mình để trụ vững, vươn lên. Bản lĩnh và sức sống của cộng đồng DN Việt một lần nữa lại được trui rèn trong thử thách...

Doanh nghiệp nhỏ và vừa - Bước qua âu lo

Cuối quý III/2010, Tập đoàn UPS (Hoa Kỳ) đã đưa ra một kết quả khảo sát khá bất ngờ vào thời điểm khá khó khăn của nền kinh tế Việt Nam, đó là đa số các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Việt Nam lạc quan vào triển vọng tăng trưởng, song cũng lo lắng về sức cạnh tranh do đang thiếu nhiều điều kiện phát triển. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và trong nước chưa có dấu hiệu phát triển bền vững, song có đến 72% DNNVV tin rằng công ty của mình sẽ hoạt động tốt hơn.

Cơ sở của niềm tin này là sự hồi phục của các thị trường kinh doanh quốc tế sẽ góp phần giúp Việt Nam trở thành thị trường phát triển nhanh. Ngoài thị trường truyền thống châu Á - Thái Bình Dương, các DNNVV đặt kỳ vọng vào các thị trường châu Âu, Bắc Mỹ. Với niềm tin lớn đó, cộng thêm trong giai đoạn khủng hoảng và suy thoái kinh tế, DNNVV được hưởng nhiều chính sách ưu đãi quan trọng của Nhà nước như được giảm 30% số thuế TNDN phải nộp của quý IV/2008 và cả năm 2009, gia hạn thời gian nộp thuế TNDN phát sinh trong năm 2009 thêm 09 tháng nữa và sau đó lại được gia hạn năm 2010 thêm 03 tháng nữa nên thời gian nộp thuế của quý I có thể kéo dài đến 30/7, quý II đến 30/10, quý III đến 31/1/2011 và quý IV đến 30/4/2011. Nếu nắm bắt đầy đủ thông tin và thực hiện đầy đủ các thủ tục thì DN sẽ được hưởng lợi hàng tỷ đồng từ việc giảm, giãn thuế.

Tuy nhiên, qua khảo sát của Hiệp hội Tư vấn Thuế, nhiều DNNVV vẫn chưa nắm được chủ trương này, ít nhiều bộc lộ sự yếu kém về tiếp cận các thông tin, dữ liệu chính sách, cần được nhanh chóng thiết lập và củng cố. Cùng với đó, những lo âu cố hữu của các DNNVV với vấn đề lãi suất tín dụng và áp lực cạnh tranh vẫn còn nguyên. Các DN cho rằng hiện tại ngân hàng vẫn có xu hướng ưu tiên tín dụng cho DNNN và DN lớn, còn các DNNVV vay không hề dễ dàng. Bên cạnh đó, các DN cũng không mấy lạc quan về sức phát triển của lực lượng lao động. Do thiếu vốn dẫn đến công nghệ lạc hậu, khó tuyển dụng nhân tài, khó tiếp cận đất đai, mặt bằng, quản trị DN hạn chế, thị trường nhỏ, chưa liên kết với các DN lớn…

Kết thúc năm 2010, dù những đặc điểm nổi bật của DNNVV Việt Nam có những điểm gì chưa được đánh giá, tổng kết mang tính hệ thống, nhưng có một thực tế chắc chắn, đó là: Hầu hết các DNNVV đã đứng vững trong năm qua, tình  trạng phá sản hay sa thải hàng loạt nhân viên đã không xảy ra. DNNVV tuy chưa có bước tiến lớn nhưng trong khó khăn, gian khó, lực lượng này ở mức độ nào đấy đã chứng tỏ được sức sống dẻo dai bền bỉ của mình.

Doanh nghiệp lớn vững tay chèo

Vào đầu năm 2010, hầu hết các DN lớn trong Bảng xếp hạng VNR500 - TOP 500 DN lớn nhất Việt Nam  đều rất lạc quan với triển vọng kinh tế của năm. Còn nhớ, tại cuộc điều tra tiến hành bởi Vietnam Report nhân dịp Lễ công bố Bảng xếp hạng VNR500 vào ngày 13/1/2010, đã có tới 86% các DN lớn của Việt Nam dự kiến doanh thu và lợi nhuận sẽ tăng trong năm 2010, chỉ có 7% số DN được hỏi cho rằng doanh thu và lợi nhuận sẽ giảm hoặc không thay đổi. Đồng thời, đa phần các DN lớn cũng có những dự báo rất tích cực về triển vọng phục hồi của nền kinh tế trong năm 2010, thể hiện qua sự ổn định của tăng trưởng, lạm phát, tỷ giá... Tuy nhiên, diễn biến thực tiễn, đặc biệt là nửa sau của năm, đã nằm ngoài dự báo của các DN lớn.

Trong khó khăn, nhiều DN thuộc TOP 500 DN lớn đã thể hiện được bản lĩnh và sức mạnh của mình. Trong đó, TOP 20 DN đầu tiên trong Bảng xếp hạng 500 DN lớn nhất Việt Nam đã đủ điều kiện gia nhập nhóm câu lạc bộ đạt doanh thu 1 tỷ USD, với mức doanh thu trung bình của nhóm này lên tới 2,7 tỷ USD. TOP 50 DN đầu tiên trong Bảng xếp hạng năm 2010 đã đủ tiêu chí về doanh thu để có thể đứng trong Bảng xếp hạng Forbes 2.000 về TOP 2.000 DN lớn nhất toàn cầu.

Trong sóng gió, Bảng xếp hạng vẫn ghi nhận sự xuất hiện của nhiều DN mới, mặc dù có 20% DN bị loại ra khỏi cuộc chơi. Bù vào khoảng trống này, các tên tuổi mới trong Bảng xếp hạng đã trải rộng ra nhiều ngành nghề, điển hình như tài chính, chứng khoán, BĐS. Điểm đáng lưu ý nữa là Bảng xếp hạng 500 DN lớn nhất Việt Nam năm 2010 cho thấy sự trỗi dậy của DN tư nhân, sự khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và tính hiệu quả trong đầu tư của DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).

Các giám đốc điều hành của DN lớn đã chứng tỏ được bản lĩnh điều hành DN của mình khi chèo lái con tàu DN vượt qua một năm đầy cam go. Nhờ đó, xét về hiệu quả kinh doanh, trong khi vẫn phải chịu nhiều sức ép từ suy thoái kinh tế, các DN lớn vẫn vững vàng thể hiện ở tổng số doanh thu của 500 DN hàng đầu tiếp tục tăng khá mạnh trong bốn năm vừa qua. Cùng với đó, đóng góp ngân sách sau cú sốc giảm năm 2008 của các DN lớn đã phục hồi trở lại và tăng nhanh trong hai năm 2009 và 2010.

Xem xét kỹ hơn thì hiệu quả xét theo suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) và suất lợi nhuận trên vốn sở hữu (ROE), khu vực DN có vốn nước ngoài FDI từng vượt xa hai thành phần kinh tế còn lại, đang ngày càng suy giảm. Cả hai chỉ tiêu này ở khu vực FDI giảm mạnh từ bảng xếp hạng 2007 sang năm 2008 từ 26,9% (ROA) - 62,4% (ROE) chỉ còn 14,7% (ROA) - 30,9% (ROE) và vẫn đang trong xu hướng giảm dần trong những năm tiếp theo.

Điểm đáng chú ý khác là trái với kỳ vọng, các DN tư nhân lớn tiếp tục yếu nhất về hiệu quả kinh doanh, thấp hơn khá nhiều so với các DN FDI cũng như DNNN. Sự yếu kém này của các DN tư nhân lớn được một số chuyên gia đánh giá là do việc các DN này đang gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận đất đai, vốn và thị trường trước áp lực cạnh tranh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, cũng như các DN xuyên quốc gia tại Việt Nam.

Về tỷ trọng ngành nghề, lĩnh vực công nghiệp có số DN áp đảo trong bảng xếp hạng với gần 70% trong khi hai lĩnh vực còn lại là nông lâm thủy sản và dịch vụ thương mại có tỷ trọng tương đương nhau trên dưới 10%. Trong đó, trong Bảng xếp hạng hai năm 2009, 2010, tỷ trọng của dịch vụ thương mại có xu hướng nhỉnh hơn so với nông lâm thủy sản khác với hai năm trước đó. 5 ngành quan trọng nhất trong bảng vẫn giữ vững được vị trí là khoáng sản - xăng dầu, xây dựng - BĐS - vật liệu xây dựng, ngân hàng - tài chính - bảo hiểm - vàng bạc, thép và nông lâm nghiệp.

Điểm đáng chú ý là trong khi những ngành có yếu tố nhập khẩu lớn như khoáng sản - xăng dầu và thép vẫn tiếp tục giữ vị trí quan trọng trong Bảng thì những ngành có yếu tố xuất khẩu là thủy sản và dệt may - da giầy đang chịu những ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu khiến tỷ trọng sụt giảm hẳn qua các năm. Đặc biệt, sự góp mặt của các ngành chế tác công nghiệp ở trong Bảng xếp hạng là vô cùng khiêm tốn, và có xu hướng tăng chậm. Điều này cho thấy sức sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam vẫn còn hạn chế sau 4 năm gia nhập WTO.

Đầu tàu kinh tế, tăng trưởng nhưng còn hạn chế

Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước được mệnh danh là những đầu tàu kinh tế, tạo nên sức mạnh kinh tế của quốc gia. Sự lớn mạnh của tập đoàn góp phần vào thúc đẩy phát triển kinh tế quốc gia thông qua các hiệu ứng và tác động lan tỏa, thúc đẩy tiến bộ công nghệ, tạo nhiều việc làm mới. Trong danh sách VNR500, các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước đang chiếm những vị trí dẫn đầu, chứng tỏ đó là những tổ chức kinh tế thực sự lớn về quy mô. Bảng xếp hạng VNR500 năm 2009, 100% số các tập đoàn kinh tế cùng với 60% số các tổng công ty hiện tại đã góp mặt, với tỷ trọng về doanh thu chiếm tới 41,85% trong toàn bảng so với 15,31% trong năm 2006.

Tuy nhiên, nhìn từ góc độ hiệu quả kinh doanh thì họ là những người khổng lồ nhưng không thực sự khỏe mạnh. Thống kê từ Bảng xếp hạng VNR500 cho thấy các chỉ tiêu về hiệu quả kinh doanh của các tập đoàn và tổng công ty nhà nước không có chênh lệch lớn với khối DN thuộc thành phần sở hữu tư nhân và thua xa các DN thuộc khối FDI. Chỉ tiêu ROA và ROE của 8 tập đoàn và 54 tổng công ty nhà nước có mặt trong Bảng xếp hạng 2009 lần lượt chỉ là 6,3% và 6,2%, trong khi đó, các con số tương ứng của khối FDI là 14% và 28%.

Chưa kể, nếu hạch toán có tính đến lạm phát thì hầu hết các tập đoàn và tổng công ty nhà nước đều thua lỗ. Hiện thực này khiến một số chuyên gia cho rằng các tập đoàn, tổng công ty nhà nước hút nhiều nguồn lực của xã hội nhưng sử dụng lại không hiệu quả, tạo môi trường cạnh tranh không công bằng, minh bạch, ảnh hưởng không tốt tới phát triển kinh tế đất nước.

Bình luận và khuyến nghị cho năm 2011

Mặc dù có sức vượt khó khá tốt nhưng nhìn từ Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam 2010, cho thấy  năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta thể hiện ở các DN, còn rất khiêm tốn, chủ yếu dựa vào các điều kiện sẵn có và yếu tố đầu vào giá rẻ. Điều này cũng trùng với kết quả VNR500 vì tuy giống như nhiều bảng xếp hạng khác trên thế giới, các công ty trong ngành dầu khí, ngân hàng, điện, viễn thông chiếm nhiều vị trí cao nhất trong VNR500 song nếu xem xét kỹ thì sự khác biệt lại rất đáng kể. Đó là,:

(i) Mặc dù Việt Nam không phải là một cường quốc về dầu khí nhưng 21/100 công ty lớn nhất lại liên quan đến xăng, dầu, và khí;

(ii)Mặc dù mức độ sung túc và thể trạng của người dân Việt Nam đều nằm dưới mức trung bình của thế giới nhưng có tới 5/TOP100 công ty lớn nhất là công ty vàng, bạc, đá quý; đồng thời cũng có tới 6/100 công ty chuyên sản xuất chất dễ gây nghiện (rượu, bia, thuốc lá). Đáng lưu ý là tất cả 11 công ty này đều là DN trong nước, chủ yếu phục vụ nhu cầu của thị trường nội địa;

(iii) Có tới 6/TOP100 công ty lương thực, thực phẩm một mặt phản ảnh tầm quan trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế, mặt khác cho thấy điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu) là một lợi thế cạnh tranh quan trọng của Việt Nam;

(iv) Trong TOP 100 có sự hiện diện của DN ô tô nhưng không một DN nào thực sự sản xuất ôtô tại Việt Nam mà chủ yếu là lắp ráp;

(v) 2/3 của TOP100 là các DNNN, chủ yếu nhờ tận khai tài nguyên hoặc khai thác vị thế độc tôn trên thị trường nội địa chứ không phải từ năng lực cạnh tranh do chính DN tạo ra. Việc đa số công ty vào được TOP100 không từ cạnh tranh quốc tế mà chỉ nhờ bảo hộ, nhờ khai thác ưu đãi trên thị trường nội địa, hay nhờ tiếp cận các yếu tố đầu vào giá rẻ và vị thế độc quyền… thì DN tuy lớn cũng chưa hẳn là mạnh, và tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Doanh nghiệp nên làm gì?

Đối với DNNVV,
cần phát huy mạnh mẽ những điểm tích cực và hạn chế tối đa những khiếm khuyết. Năm 2011 đòi hỏi DNNVV Việt Nam phải khai thác triệt để những giải pháp căn cơ như rà soát và điều chỉnh kịp thời kế hoạch kinh doanh, tìm kiếm sự ủng hộ và tư vấn của các chuyên gia, mở rộng quan hệ với khách hàng hiện tại và tìm kiếm hợp dài hạn đồng mới, gia tăng tiết kiệm chi phí và thời gian.

Hơn lúc nào hết, thời điểm khó khăn đòi hỏi DNNVV phải biết quan tâm động viên đội ngũ cán bộ và tìm kiếm liên minh trong hoạt động. Các nhà nghiên cứu đã khẳng định, toàn cầu hóa và thị trường xuất khẩu đòi hỏi phải có tầm nhìn toàn cầu và sự dẫn dắt quan trọng của chủ sở hữu và người quản lý. Những người này phải nhận thức rõ tầm quan trọng chiến lược về sự phát triển dài hạn của DN mình.

Toàn cầu hóa đòi hỏi DN phải có mức độ nhất định kinh nghiệm quốc tế và kiến thức về ngành nghề của mình. Điều này yêu cầu DN đôi khi phải chấp nhận thuê chuyên gia cho dù chi phí đắt đỏ, đồng thời cử thế hệ tiếp quản đi du học nước ngoài để có cái nhìn và kiến thức mang tính quốc tế, bao gồm cả yếu tố văn hóa - điều vốn là hạn chế của DNNVV Việt Nam.

Nhìn từ thực tế của các DNNVV Việt Nam, nhiều ý kiến cho rằng, vấn đề cốt lõi hiện nay là phải có cơ chế trợ giúp tài chính thông qua các quỹ bảo lãnh tín dụng, quỹ phát triển, cho vay ưu đãi. Đồng thời, chính quyền địa phương cần dành quỹ đất làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh cho DN và sớm có quy hoạch mạng lưới cụm công nghiệp, làng nghề cho DN hoạt động. Ngoài ra, các vấn đề đổi mới nâng cao năng lực công nghệ, kỹ thuật; xúc tiến mở rộng thị trường, đào tạo nguồn nhân lực… Trước mắt, DNNVV hãy tận dụng tốt những chính sách giảm, giãn thuế mà Chính phủ đã ban hành. Phía cơ quan ban hành và thực hiện chính sách, cần công khai minh bạch thông tin với người dân và DN, vì nếu triển khai không cẩn thận sẽ làm phát sinh hiện tượng đầu cơ thông tin dẫn đến tiêu cực.

Đối với DN lớn, kinh nghiệm cho thấy khó khăn buộc các DN phải điều chỉnh lại phương án hoạt động sản xuất, kinh doanh, tập trung đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, mặt hàng... kỳ vọng đem lại hiệu quả cao nhất, giúp DN tăng thêm sức mạnh, nâng cao giá trị cốt lõi. Trong điều kiện khó khăn về ngoại tệ và tỷ giá, cần  bám sát và xử lý tốt vấn đề này. Nếu DN nhập khẩu nhiều cần tập trung bám sát thông tin về tỷ giá, tính toán trả nợ đối tác nước ngoài cho hợp lý, tránh nhập hàng về khi tỷ giá USD lên cao, khó bán, đồng vốn khó luân chuyển nhanh. DN tài chính, ngân hàng cần chủ động xây dựng cơ chế quản trị rủi ro một cách toàn diện cả về rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động; xây dựng cơ cấu kiểm toán - kiểm soát nội bộ phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước, có khả năng kiểm soát hiệu quả mọi hoạt động của ngân hàng. Điều quan trọng để không thua trên sân nhà, DN cần củng cố lại thị trường nội địa.

DN lớn đã có quy mô thì cần đặt mục tiêu trở thành DN xuất sắc ngang tầm khu vực và thế giới. Bí quyết để xây dựng DN xuất sắc không chỉ là vấn đề kinh doanh bởi mục đích kiếm tiền không phải là sứ mệnh có tính thuyết phục cao và bền vững. Đồng tiền một mình nó không thể đem lại những ham muốn mãnh liệt để hình thành các DN xuất sắc mà cần có tham vọng lớn của những người lãnh đạo công ty. Tham vọng đó phải xuất phát vì công ty và lo lắng cho sự thành công của công ty hơn cho sự giàu có của cá nhân hay danh tiếng của bản thân. Tại Việt Nam, vấn đề sở hữu đang là cản trở để lãnh đạo các DNNN đưa DN mình trở thành DN xuất sắc hoặc vĩ đại còn đối với các DN tư nhân thì trở ngại chủ yếu đối với tham vọng của ông chủ vẫn là vấn đề cơ chế, chính sách và năng lực, quy mô.

Để vượt lên từ lớn đến vĩ đại, đòi hỏi phải vượt qua được trở ngại về năng lực nhưng vấn đề quan trọng không kém là chiến lược phát triển. Bởi tập trung vào điều gì có tiềm năng làm tốt hơn bất cứ DN nào khác mới là con đường đưa đến vĩ đại nên DN cần phải chọn một lĩnh vực làm trọng tâm và trở thành DN tốt nhất trong lĩnh vực đó. Trên thực tế ở Việt Nam, các DN hàng đầu đang loay hoay theo hướng kinh doanh đa ngành nghề mà chưa tập trung và xác định việc kinh doanh cốt lõi của mình là bước đi sai lầm để trở thành một DN lớn và xuất sắc. Kinh nghiệm cũng cho thấy công nghệ cũng là một yếu tố quan trọng, là bàn đạp để các DN nhảy vọt và trở nên xuất sắc. Phải trở thành tiên phong trong việc áp dụng công nghệ một khi công nghệ này phù hợp với chiến lược phát triển của công ty thì mới trở thành DN lớn xuất sắc.

Đối với DN khu vực FDI, cần nhắc lại rằng đây là loại hình DN được kỳ vọng nhất là nâng cao năng lực của người lao động và chuyển giao công nghệ sản xuất thì hiệu quả đầu tư của khu vực này về cả hai phương diện trên đều tỏ ra đang đi ngược lại với kỳ vọng của các nhà hoạch định chính sách. Do đó, vấn đề lựa chọn và cấp giấy chứng nhận đầu tư cần gắn với lợi ích chung của nền kinh tế, ưu tiên những lợi ích chỉ có thể đem lại từ bên ngoài, như kiến thức, kỹ năng và chuyển giao công nghệ, yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực đối với DN FDI bên cạnh chính sách phát triển nguồn nhân lực chung của quốc gia, cần nói không với các dự án chưa đáp ứng các đòi hỏi của định hướng phát triển bền vững của vùng và đất nước.

Đối với DNNN, cần có nhận thức rõ ràng sức mạnh và vai trò của các DNNN lớn, từ đó có những chủ trương, quyết sách, hành động đúng đắn. Các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước phải giữ vai trò quan trọng trong chiến lược bảo vệ sản xuất trong nước, khai thác lợi thế so sánh và chống lại sự thâm nhập ồ ạt của các tập đoàn nước ngoài trong bối cảnh toàn cầu hóa.

DNNN lớn cần phát huy được lợi thế về quy mô, thống nhất phương hướng phát triển, thống nhất các chính sách nội bộ của hệ thống bao gồm cả chính sách tài chính, phấn đấu tiết kiệm chi phí trên một đơn vị sản phẩm, phát huy được thương hiệu để ltăng sức mạnh chung của cả tập đoàn. DNNN lớn vốn có nhiều lợi thế hơn các của khu vực sở hữu khác nhờ vào sử phát triển lâu dài, tính độc quyền và nguồn lực của quốc gia. Tuy nhiên, kinh tế thị trường đòi hỏi các DNNN lớn phải hoạt động kinh doanh theo tư duy DN, tư duy thị trường, năng động và sáng tạo chứ không được dựa dẫm vào "đường ray" định sẵn bấy lâu nay bởi khi những lợi thế trên dần biến mất, sẽ rất nguy hiểm cho bản thân DN và đất nước.

Các tập đoàn, tổng công ty hiện vừa thực hiện chức năng kinh doanh vừa thực hiện một số chức năng như cơ quan quản lý nhà nước, vừa phải lo đạt chỉ tiêu kinh doanh, vừa phải lo thực hiện các nhiệm vụ chính trị, xã hội nên cần có một khung khổ pháp lý như Luật Đầu tư công để rạch ròi 2 mảng trên.

Quản trị của các DNNN nói chung, đặc biệt là các DNNN quy mô lớn cũng cần xốc lại, trong đó cần xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của HĐQT và Tổng giám đốc đối với vốn và tài sản nhà nước tại DN, vừa đảm bảo quyền chủ động sản xuất kinh doanh của DN, vừa bảo toàn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản nhà nước. Bên cạnh đó, cần đổi mới các quy định về quản lý tài chính và chế độ kiểm tra, giám sát hoạt động của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và tạo ra một môi trường cạnh tranh công khai và bình đẳng, giúp cho khu vực dân doanh ngày càng nhiều cơ hội phát triển.

Cuối cùng, DN quy mô lớn hơn ai hết cần tự trao trọng trách biến hy vọng sánh vai ngang tầm các DN xuất sắc của thế giới trở thành sự thực. Mặc dù khoảng cách từ một DN lớn đến DN xuất sắc là không nhỏ. Nhìn vào Bảng xếp hạng VNR500 - Top 500 DN lớn nhất Việt Nam, có thể thấy những DN lớn nhưng khó có thể kể ra một DN xuất sắc vượt trội nhưng chúng ta vẫn có quyền tìm hiểu con đường đi tới xuất sắc của các DN Việt Nam và tạo cơ sở nuôi dưỡng hy vọng đó.

Tính đến hết năm 2010, Việt Nam có khoảng 540 nghìn DN, trong đó chiếm tới 97% là DNNVV, với số vốn đăng kí trên 120 tỉ USD. Các DNNVV sử dụng hơn 50 % lao động xã hội và đóng góp hơn 40% GDP cả nước. Nếu tính cả 133.000 hợp tác xã, trang trại và các hộ kinh doanh cá thể thì khu vực này đóng góp tới 60% GDP. Không chỉ giữ vai trò ổn định nền kinh tế, tạo nên các ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng, vai trò nổi bật của DNNVV còn thể hiện ở vị trí là nhân tố trụ cột của kinh tế địa phương.
Doanh nghiệp Việt Nam thường tập trung đầu tư vào tài sản hữu hình nhưng các tài sản vô hình như sở hữu trí tuệ, công nghệ, hệ thống và thương hiệu chưa được quan tâm thích đáng. Bởi vậy Việt Nam chưa có các thương hiệu mạnh tầm cỡ khu vực và thế giới (trừ Vinamilk là DN đầu tiên và duy nhất lọt vào danh sách TOP 200 DN tốt nhất tại Châu Á - Thái Bình Dương do Forbes Asia  bình chọn năm 2010). Các DN, đặc biệt là DN lớn cần chấp nhận mức lợi nhuận khiêm tốn để đầu tư vào thương hiệu, nhắm tới mức lợi nhuận cao vượt trong tương lai.