Tăng giá điện: kế hoạch hay đối phó?
(Tài chính) Trả lời của đại diện Bộ Công Thương trong phiên họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 8 về vấn đề tăng giá điện cho thấy, dường như còn thiếu tầm nhìn dài hạn của cả cơ quan chủ quản và doanh nghiệp trong kinh doanh điện năng.

Kết quả nghiên cứu của CIEM cho thấy, chi phí bảo đảm an sinh cho hộ nghèo thực chất chính là chi phí mà ngân sách nhà nước gián tiếp bù lỗ cho DN trong các ngành kinh doanh hàng hóa có vị thế độc quyền. Ngân sách Nhà nước sẽ phải chi ra nhiều hơn để kìm giữ giá một số mặt hàng cơ bản. Theo tính toán của CIEM, khi giá tăng, dù ngân sách bù đắp phúc lợi cho hộ nghèo thì tỷ lệ nghèo vẫn tăng khoảng 0,65 điểm phần trăm trong ngắn hạn, và 0,7 điểm phần trăm trong dài hạn.
Trước câu hỏi của báo giới về sự khác nhau trên, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh đã thừa nhận việc tăng giá điện có ảnh hưởng tới đời sống người dân. Với mức tăng 5% thì CPI trực tiếp tăng khoảng 0,12%. Việc tăng giá điện này có thể cũng làm tăng giá thành của một số ngành sản xuất, tùy thuộc vào lĩnh vực, mức độ tiêu hao điện năng, công nghệ mà dao động trong khoảng từ 0,004-0,005%. Đối với một số ngành chịu tác động nhiều, điện năng tiêu thụ lớn thì giá tăng nhiều hơn, như xi măng tăng 0,43%; phôi thép tăng 0,41%; thép thành phẩm tăng 0,04%.
Thứ trưởng Trần Tuấn Anh khẳng định, việc tăng giá này là phù hợp với mặt bằng cơ chế giá cả thị trường của sản phẩm đầu vào. Theo lộ trình tăng giá của ngành than, trong tháng 8/2013, giá than cung cấp cho ngành điện sẽ tăng từ 37-41%. Như vậy, chi phí nguyên liệu đầu vào cho EVN sẽ tăng 4.000 tỷ đồng trong năm 2013. Một nguồn nguyên liệu khác là khí cũng sẽ tăng giá trong thời gian tới. Do đó, Bộ Công Thương quyết định tăng giá là để bảo đảm mục tiêu và quy định của Thủ tướng cho hoạt động của tập đoàn EVN. Bên cạnh đó, ông Trần Tuấn Anh tiếp tục khẳng định, việc tăng giá này đúng theo lộ trình và không có tác động nhiều tới doanh nghiệp cũng như đời sống của người dân.
Rõ ràng câu trả lời trên của Thứ trưởng khó có thể làm hài lòng dư luận. Trước hết, nó hoàn toàn chưa làm rõ được lý do tại sao lại có sự vênh nhau trong đánh giá giữa một bên là “ảnh hưởng nhiều” của CIEM và một bên là “có ảnh hưởng, nhưng không nhiều” của EVN và Bộ Công Thương. Câu trả lời của ông Trần Tuấn Anh không có được những số liệu “biết nói” như CIEM. Thứ hai, tại sao lại có sự “tiền hậu bất nhất” trong cách đánh giá của các cơ quan quản lý điện về ảnh hưởng của đợt tăng giá đối với đời sống người dân như trên? Điều này không khỏi khiến người ta suy luận rằng, nếu không có những con số cụ thể của CIEM, thì Bộ Công Thương sẽ giữ quan điểm tăng giá điện không ảnh hưởng đến đối tượng hộ nghèo. Dư luận và cả các chuyên gia có thể không đồng tình, nhưng Bộ có thể khẳng định, đó là kết quả đánh giá trên thực tế.
Một từ thường xuất hiện trong các câu trả lời của EVN và Bộ Công Thương lâu nay đó là “lộ trình”. Tuy nhiên, nếu đã gọi là “lộ trình” thì sao lại có việc tăng giá điện đột ngột hồi đầu tháng 8 vừa qua? Việc Bộ Công Thương dẫn ra nhiều lý do giải thích cho việc tăng giá, có thể thấy Bộ hoàn toàn đủ căn cứ để lập ra lộ trình tăng giá cụ thể. Đó đồng thời cũng là yêu cầu của Chính phủ đã được Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam nhắc lại nhiều lần trong phiên họp báo. Lâu nay, EVN và Bộ Công Thương vẫn chưa thực hiện được yêu cầu công khai minh bạch trong giá điện. Cách trả lời lần này của đại diện Bộ Công Thương cho thấy, dường như Bộ chưa tiến hành đánh giá toàn diện về tác động của giá điện nói riêng và thực trạng ngành điện nói chung. Như vậy, phải chăng những lần tăng giá điện, xăng từ trước đến nay chưa xuất phát từ một kế hoạch với tầm nhìn dài hạn?