Tạo thuận lợi thương mại làm đòn bẩy kinh tế mới
(Tài chính) Xuất khẩu vẫn là định hướng chính trong phát triển kinh tế Việt Nam. Tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và ký các thoả thuận thương mại tự do với nhiều đối tác thương mại, thông qua việc giảm thuế và các rào cản thương mại khác, Việt Nam tăng được xuất khẩu. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam sẽ không thể tiếp tục dựa vào các đòn bẩy từ tự do hoá thương mại. Tạo thuận lợi thương mại sẽ phải trở thành chính sách quan trọng hơn.
Đó là những nội dung mà Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế và Ngân hàng Thế giới nhấn mạnh trong báo cáo nghiên cứu “Tạo thuận lợi thương mại, tạo giá trị và năng lực cạnh tranh: Gợi ý chính sách cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam” được công bố ngày 4/10/2013.
Mặc dù Việt Nam ngày càng có cơ hội mở ra các thị trường lớn, nhưng nguy cơ bị hạn chế bởi chính các rào cản thâm nhập thị trường do mình tự tạo ra. Doanh nghiệp không thể khai thác được cơ hội từ tự do hoá thương mại khi trong nước không tạo thuận lợi thương mại. Theo báo cáo trên, ba trụ cột quan trọng tác động đến thương mại – xuất khẩu đều đang có những vấn đề phải xem xét, đó là: hạ tầng giao thông và các dịch vụ logistics; thủ tục pháp quy về xuất nhập khẩu; tổ chức chuỗi cung ứng.
Việt Nam đã đầu tư công rất lớn vào cơ sở hạ tầng, nhưng hạ tầng liên quan đến thương mại vẫn chưa theo kịp tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, trong đó phải kể đến kết nối giao thông yếu kém, chi phí vận tải cao, chất lượng dịch vụ vận tải và logistics thấp.
Khoảng 90% thương mại quốc tế của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển. Công suất cảng biển hiện có dường như có thể đáp ứng được nhu cầu, song quy hoạch cảng biển, đầu tư cảng lại không gắn liền với kết nối giao thông và thiếu hỗ trợ dịch vụ logistics nên hiệu suất cảng thấp. Chẳng hạn, cảng Cái Mép được đánh giá là cảng nước sâu quan trọng đối với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, công suất thiết kế là 6,4 triệu TEUs/năm vào năm 2011, nhưng hiện chỉ mới đạt 05 – 0,7 triệu TEUs.
Theo các chuyên gia nghiên cứu, nguồn đầu tư hạ tầng hiện nay là đầu tư công, nhưng không có tầm nhìn gắn phát triển hạ tầng với năng lực cạnh tranh thương mại quốc gia.
Thủ tục pháp quy trong giao dịch thương mại qua biên giới được chú ý nhất là hải quan. Những sửa đổi gần đây trong luật Hải quan, cải cách hành chính đã giúp cải thiện đáng kể thủ tục hải quan. Tuy nhiên, việc áp dụng công nghệ thông tin vẫn trong giai đoạn thí điểm, nên hải quan và các bộ, ngành liên quan đến công tác quản lý biên mậu vẫn xử lý công việc dựa vào các biểu mẫu giấy, mất nhiều thời gian cho doanh nghiệp, không nhất quán và còn nhiều lỗ hổng gây tham nhũng. Sự gia tăng số lượng giao dịch trong quá trình phát tirển thương mại nhanh hơn bước tiến quy trình thủ tục, do vậy, không ngạc nhiên là Việt Nam vẫn thua xa các nước trong khu vực về thời gian thông quan và tỷ lệ kiểm tra hàng thực tế. Cảm nhận của doanh nghiệp về hoạt động của hải quan khá tiêu cực.
Tổ chức chuỗi cung ứng được đề cập đến vì đang có thay đổi trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Nguyên liệu thô, kể cả dầu thô mặc dù còn chiếm tỷ trọng lớn trong sản lượng xuất khẩu, đã sụt giảm từ 51,7% (năm 2000) xuống 30% (năm 2010), công nghiệp chế biến tăng từ 42,9% lên 59,8%. Thế nhưng, sản phẩm chế biến phần lớn từ công nghệ thấp hoặc trung bình, nên tạo ra ít giá trị gia tăng cho nền kinh tế.
Nhìn vào các ngành xuất khẩu chủ lực đều thấy vấn đề tái cơ cấu chuỗi cung ứng hoặc phát triển công nghiệp phụ trợ nhằm giảm chi phí và tăng giá trị hàng xuất khẩu chưa được chú ý nhiều. Ở ngành may mặc, 60% nhà máy làm hàng gia công cho chủ hàng nước ngoài, chỉ có 2% là công ty sản xuất thiết kế gốc (ODM), số còn lại sản xuất theo hợp đồng có tham gia mua nguyên vật liệu và tìm nguồn cung ứng. Ngành da giày có đến 54% tổng số nhà máy làm hàng gia công, nhập khẩu 60% nguyên liệu thô. Ngành công nghiệp điện tử và thiết bị điện chuyên sản xuất linh kiện cho các sản phẩm điện tử phức tạp mà cuối cùng được lắp ráp ở các nước khác, chủ yếu là Trung Quốc. Xuất khẩu gạo chủ yếu thực hiện theo hợp đồng giữa chính phủ với chính phủ dẫn đến xuất khẩu gạo chất lượng thấp, chưa khuyến khích đa dạng sản phẩm gạo cũng như xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam, từ đó nông dân ít động lực để cải thiện chất lượng gạo.
Các chuyên gia kinh tế của ngân hàng Thế giới nhấn mạnh Chính phủ đóng vai trò quan trọng tạo thuận lợi thương mại. Thực tế, ở tầm vĩ mô có quá nhiều kế hoạch chiến lược chồng chéo nhau, không có kế hoạch nào xem tạo thuận lợi thương mại là vấn đề trung tâm...