Thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam giai đoạn 2006 – 9/2013
Trong giai đoạn từ năm 2006 đến tháng 9/2013, dư nợ TTTP chiếm từ 14,23% đến trên 18% GDP. Tại thời điểm cuối tháng 9/2013, dư nợ TTTP đạt mức 679.787 tỷ đồng, chiếm 18,4% GDP ước của năm 2013. Tại thời điểm 30/9/2013, dư nợ thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) là 406.950 tỷ đồng, TTTP được Chính phủ bảo lãnh là 163.553 tỷ đồng, TTTP DN là 96.895 tỷ đồng, TTTP chính quyền địa phương là 12.389 tỷ đồng.
Đối với TTTP được Chính phủ bảo lãnh, trong giai đoạn 2006 - 2012 có mức tăng trưởng mạnh nhất là 408,6%, theo đó là thị trường TPCP tăng trưởng 193,9%, thị trường TPDN tăng trưởng 127% và TTTP chính quyền địa phương tăng trưởng 92,4%.
Có được sự tăng trưởng trên, một phần quan trọng là trong thời gian qua, Bộ Tài chính đã thực hiện điều hành lãi suất phát hành phù hợp với lãi suất của thị trường. Đặc biệt, từ năm 2012 đến nay, lãi suất phát hành TPCP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh đã giảm hoàn toàn tương ứng với điều hành giảm lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
Cụ thể, lãi suất phát hành TPCP đã giảm từ 3,10% đến 6,0% đối với các kỳ hạn dưới 10 năm, giảm 2,20% đối với kỳ hạn 10 năm. Phương thức phát hành TPCP đã chuyển dịch dần từ bảo lãnh sang đấu thầu. Trước năm 2010, TPCP được phát hành chủ yếu qua phương thức bảo lãnh (chiếm trên 80% khối lượng phát hành). Từ năm 2011 đến nay, TPCP được phát hành chủ yếu bằng phương thức đấu thầu (chiếm đến 95% khối lượng phát hành).
Cơ cấu nhà đầu tư TPCP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh chưa có chuyển biến, vẫn tập trung chủ yếu vào các ngân hàng thương mại (chiếm đến 86,7% khối lượng trái phiếu đang niêm yết). TTTP trong nước vẫn chưa thực sự thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài (chiếm 13,33% khối lượng trái phiếu đang niêm yết).
Đối với trái phiếu chính quyền địa phương, giai đoạn 2003 - 2011, trên quy mô toàn quốc, có 3 tỉnh/ thành phố là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đồng Nai phát hành đạt 15.697 tỷ đồng. Năm 2012, có 2 tỉnh/ thành phố phát hành trái phiếu là TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, với tổng khối lượng phát hành là 4.810 tỷ đồng. Trong 9 tháng đầu năm 2013, có 3 tỉnh/thành phố phát hành trái phiếu là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và tỉnh Quảng Ninh phát hành đạt 3.820 tỷ đồng. Tính đến 31/12/2012, dư nợ trái phiếu chính quyền địa phương đạt 9.125 tỷ đồng, tương đương khoảng 0,31% GDP 2012. Tính đến 30/9/2013, dư nợ trái phiếu chính quyền địa phương đạt 12.389 tỷ đồng.
Trong giai đoạn 2010 - 2013, TTTP đã phát triển mạnh mẽ trên thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Về khung khổ pháp lý, giai đoạn từ năm 2000 đến nay, khung pháp lý về phát hành trái phiếu đã được ban hành đầy đủ, đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thị trường. Trong năm 2012, Bộ Tài chính đã ban hành các thông tư quy định đầy đủ quy trình, thủ tục phát hành, đăng ký, lưu ký và niêm yết các loại trái phiếu theo quy định tại Nghị định số 01/2011/NĐ-CP, hướng tới các thông lệ của thị trường quốc tế. Đặc biệt là việc niêm yết và giao dịch tín phiếu Kho bạc Nhà nước (KBNN) tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.
Ngày 7/12/2012 Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 3089/QĐ-BTC đưa ra danh sách thành viên đấu thầu TPCP năm 2013. Với việc ban hành danh sách này, hoạt động của TTTP sẽ dần tiếp cận với thông lệ quốc tế, tập trung hoạt động thông qua một số các tổ chức cụ thể để từng bước chuyên môn hóa hoạt động giao dịch trái phiếu, hình thành hệ thống các tổ chức tạo lập thị trường, có nghĩa vụ cung cấp định hướng cho thị trường tài chính, hỗ trợ thanh khoản cho TTTP và là cầu nối giữa các nhà đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước (tổ chức phát hành).
Bên cạnh việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, Bộ Tài chính đã thực hiện nhiều biện pháp để hỗ trợ sự phát triển của TTTP, cụ thể: (i) thực hiện đa dạng hoá các sản phẩm trái phiếu theo hướng tăng cường các công cụ nợ có kỳ hạn dài để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư. Trong năm 2013, KBNN đã thực hiện phát hành trái phiếu kỳ hạn kéo dài 15 năm theo phương thức bảo lãnh phát hành; (ii) hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ giao dịch tại Sở Giao dịch Chứng khoán để thúc đẩy việc đăng ký, lưu ký, niêm yết giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp; (iii) giảm thời gian đưa trái phiếu phát hành vào giao dịch từ T+6 thành T+5 (giảm 1 ngày làm việc); (iv) thực hiện đề án tái cơ cấu hàng hoá trên TTTP Chính phủ để giảm bớt mã trái phiếu giao dịch, tăng quy mô niêm yết và tăng tính thanh khoản cho TPCP. Kể từ năm 2012, KBNN đã bắt đầu thực hiện hoán đổi TPCP để tăng thanh khoản trên thị trường thứ cấp; (v) rà soát, cải tiến cơ chế thuế, phí lệ phí để khuyến khích nhà đầu tư tham gia vào TTTP. Từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung về .
Mặc dù, TTTP đã đạt được kết quả nêu trên, nhưng nhìn chung quy mô của thị trường vẫn còn nhỏ, tính thanh khoản của TTTP vẫn còn thấp. Nguyên nhân chủ yếu là do các tồn tại, hạn chế sau:
Một là, về các quy định pháp lý: Việc chưa có khung khổ pháp lý về hoạt động định mức tín nhiệm đã ảnh hưởng đến sự phát triển của TTTP Việt Nam, do các nhà đầu tư không có thông tin về mức độ rủi ro của trái phiếu nên đã hạn chế giao dịch. Luật Chứng khoán không cho phép bán chứng khoán khống, do đó các thành viên đấu thầu trái phiếu không thể thực hiện chào giá 2 chiều khi không có mã trái phiếu được chào giá. Ngoài ra, Luật Ngân sách nhà nước và Luật Quản lý nợ công không cho phép việc các thành viên đấu thầu trái phiếu được vay trái phiếu từ Bộ Tài chính. Do vậy, không có cơ chế hỗ trợ thanh khoản cho các thành viên đấu thầu trái phiếu trong việc thực hiện các nghĩa vụ tạo thanh khoản trên thị trường thứ cấp trái phiếu.
Theo Điều 15 Luật NHNN, chỉ có các tổ chức tín dụng mới được tham gia nghiệp vụ thị trường mở nhưng hiện tại có 22 ngân hàng thương mại (NHTM) và 14 công ty chứng khoán là thành viên đấu thầu trái phiếu. Đây là một hạn chế lớn đối với các công ty chứng khoán so với các NHTM, không được hỗ trợ thanh toán từ NHNN. Nguồn tiền cho việc thực hiện mua lại TPCP chưa được quy định tại Luật Ngân sách nhà nước. Công tác phát hành TPCP còn phụ thuộc vào việc quản lý thu – chi ngân sách mà chưa theo sát diễn biến trên thị trường.
Hai là, về cơ sở nhà đầu tư trên TTTP: Hệ thống các nhà đầu tư trên TTTP vẫn chưa thay đổi, tập trung vào các NHTM (nắm giữ khoảng 87% tổng khối lượng trái phiếu), chưa có các tổ chức tài chính khác tham gia đầu tư dài hạn trên thị trường. Các NHTM chỉ trong điều kiện thanh khoản tốt, dư thừa về nguồn vốn khả dụng mới tham gia, đầu tư vào trái phiếu. Các NHTM có nguồn vốn đầu tư dài hạn ít nên nhu cầu chủ yếu là trái phiếu có kỳ hạn ngắn (chủ yếu là tín phiếu và trái phiếu kỳ hạn 2, 3 năm). Việc huy động mạnh các kỳ hạn ngắn làm tăng rủi ro tái cấp vốn đối với Chính phủ. Do vậy, việc tăng khối lượng huy động giai đoạn 2010 – 2013 là chưa bền vững.
Nhà đầu tư nước ngoài mới chỉ quay lại TTTP trong nước từ cuối năm 2012 nhưng còn dè dặt, nắm giữ khoảng 13% tổng khối lượng trái phiếu (bao gồm cả tỷ lệ sở hữu của pháp nhân nước ngoài khoảng 2% và của tổ chức thành lập trong nước có sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài khoảng 11%).
Ba là, về thông tin giao dịch: Giao dịch repo chưa được báo cáo đúng bản chất, đang được báo cáo thành 2 giao dịch mua đứt (Outright). Do vậy, ảnh hưởng đến tính chính xác về bản chất và thời điểm của lãi suất giao dịch. Hầu như không có giao dịch, nếu có thì thông tin cũng không được công bố để làm cơ sở định giá cho thị trường.
Bốn là, rủi ro về thanh toán: Thanh toán trái phiếu đang được thực hiện qua BIDV, dẫn đến rủi ro về thanh khoản của BIDV khi khối lượng giao dịch trái phiếu ngày càng tăng.
Giải pháp hoàn thiện
Để phát triển TTTP trong giai đoạn hiện nay và dài hạn, Bộ Tài chính đã đưa ra 9 nhóm giải pháp cơ bản như sau:
Một là, hoàn thiện dự thảo Nghị định về thành lập và hoạt động của DN định mức tín nhiệm. Hiện dự thảo này đang trong quá trình hoàn thiện và Bộ Tài chính sớm trình Chính phủ. Việc đánh giá định mức tín nhiệm có vai trò quan trọng đối với DN khi huy động vốn trên thị trường, các nhà đầu tư cũng như cơ quan quản lý nhà nước.
Hai là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phát triển hệ thống đại lý cấp I để hỗ trợ công tác phát hành trái phiếu trên thị trường sơ cấp và thanh khoản của thị trường thứ cấp. Trên cơ sở triển khai thí điểm trong năm 2013, đến năm 2014, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục theo dõi, đánh giá hoạt động của thành viên để tiến tới chọn lọc được một hệ thống đại lý cấp I có chất lượng, đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường với quyền lợi và trách nhiệm cụ thể. Trong thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế hỗ trợ thanh khoản cho các thành viên đấu thầu để thực hiện các nghĩa vụ trên thị trường sơ cấp và thứ cấp.
Ba là, nghiên cứu và xây dựng Nghị định về Quỹ hưu trí tự nguyện để trình Chính phủ xem xét, ban hành nhằm củng cố hệ thống cơ sở nhà đầu tư dài hạn trên TTTP.
Bốn là, khuyến khích sự phát triển của thị trường TPDN. Để thực hiện được điều này, Bộ Tài chính tiến hành tổng kết, đánh giá các vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai Nghị định số 90/2011/ NĐ-CP về phát hành TPDN (đặc biệt là các vấn đề liên quan đến điều kiện phát hành TPDN, yêu cầu về định mức tín nhiệm). Theo đó, Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định sửa đổi, bổ sung Nghị định nêu trên nhằm khuyến khích sự phát triển của thị trường TPDN, tạo thêm điều kiện cho các doanh nghiệp huy động vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ngoài nguồn vốn tín dụng của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Năm là, phát triển các sản phẩm mới. Phát triển các sản phẩm trái phiếu phái sinh và các sản phẩm trái phiếu mới phù hợp với mức độ phát triển của thị trường.
Sáu là, tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý về phát hành TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu cơ quan địa phương và TPDN.
Bảy là, tiếp tục hỗ trợ thị trường thứ cấp phát triển thông qua việc nghiên cứu: (i) Các mô hình giao dịch thứ cấp khác trên thế giới, bao gồm hệ thống công nghệ thông tin, cơ chế thanh toán, lưu ký, cơ chế báo cáo; (ii) Các giải pháp để xác định thời điểm phát sinh giao dịch thực tế, phân biệt giữa giao dịch Repo và giao dịch Outright để đảm bảo thống kê giao dịch phản ánh chính xác cả về thời điểm và bản chất giao dịch trên thị trường thứ cấp; (iii) Tiếp tục giảm thời gian thực hiện đăng ký, lưu ký, niêm yết trái phiếu từ T+4 xuống T+3; (iv) Xây dựng hệ thống thanh toán bù trừ theo mô hình đối tác trung tâm. Song song với đó, Bộ Tài chính phối hợp với NHNN để hoàn thiện và xây dựng hệ thống thanh toán TPCP qua NHNN để đẩy nhanh tốc độ, giảm thiểu rủi ro đối tác trong giao dịch trái phiếu.
Tám là, thu hút nhà đầu tư nước ngoài. Nghiên cứu chính sách thu hút nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường thông qua cơ chế về thuế và công cụ phòng ngừa rủi ro.
Chín là, chính sách thuế và phí: Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các chính sách thuế và phí đối với TTTP.
Thị trường trái phiếu Việt Nam và định hướng phát triển
(Tài chính) Những năm qua, thị trường trái phiếu (TTTP) Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực cả về chiều rộng và chiều sâu. Tính đến tháng 9/2013, dư nợ trên toàn thị trường đạt 18,4% ước tính GDP năm 2013, tăng khoảng 4 lần so với năm 2006. Mặc dù đã có tăng trưởng mạnh mẽ, song thực tế thị trường vẫn còn không ít những tồn tại, hạn chế. Bài viết đánh giá tổng quan TTTP giai đoạn 2006 đến tháng 9/2013 và một số giải pháp định hướng phát triển thị trường trong thời gian tới.
Xem thêm