Thị trường trái phiếu Việt Nam: Dư địa cho phát triển còn lớn!
TCTC Online - Năm 2010, thị trường vốn Việt Nam nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng đối mặt với không ít khó khăn thách thức do tác động của thời "hậu" khủng hoảng. Mặc dù vậy, thị trường vẫn đạt được một số kết quả đáng trân trọng, nhất là trái phiếu Chính phủ, tạo cơ sở để tự tin bước vào năm 2011. Tài chính & Đầu tư đã có cuộc trao đổi với ông Đỗ Ngọc Quỳnh, Tổng thư ký Hiệp hội thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA) xung quanh chủ đề trên.

Ý kiến của ông thế nào khi nhìn lại một năm nhiều khó khăn, thách thức với thị trường trái phiếu Việt Nam?
Theo thống kê của VBMA, 2 năm trở lại đây có khoảng trên 100 DN phát hành trái phiếu và giá trị trái phiếu phát hành thành công là trên 60.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, trong năm 2010, tỷ lệ phát hành thành công trái phiếu DN còn ở mức khiêm tốn. Bên cạnh đó, kết quả phát hành trái phiếu Chính phủ (TPCP) cũng chưa như kỳ vọng.
Theo diễn biến thời gian, trong quý I/2010, thị trường TPCP sơ cấp hoạt động không mấy thành công do biến động về tỷ giá và các biến động về kinh tế vĩ mô chưa tạo được niềm tin cho các NĐT. Tuy nhiên, bước sang quý II và quý III thì kết quả phát hành TTCP do Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) đã đạt được những kết quả khá cao, thậm chí, có thể nói là rất ấn tượng so với năm 2009 và 2008.
Theo tổng kết, đến hết ba quý đầu năm, Kho bạc Nhà nước đã phát hành được trên 68.000 tỷ đồng/kế hoạch 100.000 tỷ (hoàn thành trên 68%); tại VDB đến hết tháng 10 đã phát được trên 30.000 tỷ đồng (hoàn thành hơn 100% kế hoạch). Trong khi đó, theo thống kê của VBMA thì tổng lượng TPCP phát hành thành công trong năm 2009 là khoảng 15.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, sang quý IV/2010 kết quả phát hành đã không được tốt như quý II và quý III. Các cuộc phát hành không thành công đang tăng lên. Trên thị trường thứ cấp, sự ra đời của thị trường trái phiếu chuyên biệt của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội từ cuối năm 2009 cũng đã bước đầu tạo ra những điều kiện phát triển thuận lợi hơn. Quy mô thị trường thứ cấp ngày càng tăng với hơn 100 mã trái phiếu mới được niêm yết, giá trị niêm yết tăng 52 nghìn tỷ đồng tương đương 32% so với năm 2009.
Tuy nhiên, hoạt động giao dịch trên thị trường thứ cấp kém sôi động hơn năm 2009 và 2008 do thiếu vắng sự tham gia của các NĐT trong và ngoài nước với thành phần chủ yếu là các NHTM (đơn vị chủ yếu đầu tư để nắm giữ đến hạn và sử dụng tham gia thị trường mở làm dự trữ thanh khoản thứ cấp).
Trong khi các nền kinh tế trong khu vực đang phải chật vật ngăn dòng vốn nóng đổ vào thì điều này lại trái ngược với Việt Nam, nguồn vốn vẫn chê thị trường Việt Nam. Đâu là nguyên nhân của thực trạng này, thưa ông?
Có thể nói, ngoài nguyên nhân kinh tế của Việt Nam không “đẹp” bằng các nước trong khu vực, còn có một số nguyên nhân căn bản khác dẫn đến thị trường vốn Việt Nam chưa hút được dòng vốn này. Cụ thể, chúng ta hãy nhìn vào thực tế từ một số nước để thấy rõ: Trong quá trình phục hồi kinh tế hậu khủng hoảng, gần đây dòng vốn nóng của châu Âu, Mỹ tìm cách đổ vào các nền kinh tế mới nổi, mà châu Á là trọng tâm.
Trong bối cảnh đó, nhiều nước như Thái Lan, Hàn Quốc… đã phải tìm cách kiểm soát dòng vốn nóng đổ vào để phù hợp với khả năng hấp thụ nhằm đề phòng gây bất ổn kinh tế vĩ mô. Trong khi đó, dòng vốn này vẫn chưa tìm đến Việt Nam, bởi tuy các chỉ số vĩ mô cơ bản năm 2010 khá tốt, nhưng nếu đi sâu phân tích các chỉ tiêu về lạm phát, cán cân xuất nhập khẩu, tỷ giá… thì nền kinh tế Việt Nam có một số điểm chưa thuận lợi cho các NĐT so với các nền kinh tế trong khu vực. Khi đồng nội tệ của hầu hết các nước trong khu vực đều lên giá so với USD, thì VND có xu hướng ngược lại.
Thêm vào đó, tỷ giá vẫn chưa có dấu hiệu ổn định, lạm phát cao làm cho lãi suất chịu áp lực tăng lên, cán cân xuất nhập khẩu tiếp tục mất cân đối… Trong khi, thị trường trái phiếu gắn rất chặt với diễn biến kinh tế vĩ mô, nên những yếu tố “chưa đẹp” trên làm giảm tính cạnh tranh của Việt Nam so với các nước trong thu hút NĐT nước ngoài vào thị trường trái phiếu nói riêng, thị trường vốn nói chung.
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, nếu kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định, theo đuổi các mục tiêu tăng trưởng bền vững, thì sẽ từng bước tạo ra sức hấp dẫn đủ lớn để biến nhiều dòng vốn nóng thành “vốn nguội”, nghĩa là giữ chân được NĐT ở lại lâu hơn với thị trường vốn, còn không thì ngược lại.
Theo ông, ngoài những yếu tố về kinh tế vĩ mô, các NĐT nước ngoài đang mong đợi sự cải thiện gì ở thị trường trái phiếu Việt Nam?
Lợi nhuận so sánh thường là mục tiêu số một khi NĐT đưa ra quyết định giải ngân vào bất kỳ thị trường trái phiếu nào. Ngoài yếu tố này, điều NĐT quan tâm và so sánh khi lựa chọn thị trường đầu tư là mức độ an toàn xét trên góc độ xếp hạng tín nhiệm, mức độ phát triển của thị trường về quy mô giao dịch, khả năng thanh khoản, cơ sở hạ tầng giao dịch, hệ thống pháp lý và chi phí kinh doanh có cạnh tranh không… Vì vậy, muốn tăng khả năng cạnh tranh để thu hút NĐT thì cùng với nỗ lực thực hiện các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, đưa nền kinh tế phát triển đi vào chiều sâu, chúng ta cần nghiên cứu xây dựng một chiến lược phát triển thị trường trái phiếu tổng thể với lộ trình và mục tiêu ưu tiên cụ thể trên các mặt vừa nêu.
Năm 2011, Chính phủ có chủ trương sẽ giảm đầu tư công vào một số lĩnh vực có sử dụng nguồn vốn trái phiếu. Điều này sẽ tác động ra sao đến thị trường thưa ông?
Thực tế, Chính phủ có nhiều kênh huy động vốn khác nhau như: thuế, vay song phương vay đa phương hoặc phát hành trái phiếu…để đầu tư vào nền kinh tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh mối lo về sự gia tăng nợ công trên phạm vi toàn thế giới đã buộc Chính phủ phải xem xét về việc nâng cao hiệu quả đầu tư công và giảm những đầu tư không cần thiết. Một khi việc giảm đầu tư công thì sẽ dẫn đến việc giảm nhu cầu về vốn. Do đó, thị trường trái phiếu bị ảnh hưởng là điều tất yếu.
Kinh nghiệm tại nhiều nước trên thế giới cho thấy, để có một thị trường trái phiếu phát triển và bền vững cho dù tình hình kinh tế thế nào đi chăng nữa thì thông thường Chính phủ nên duy trì mức phát hành trái phiếu mới của mỗi năm khoảng 15% GDP. Chẳng hạn, sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 - 1998 Thái Lan vẫn có thặng dư ngân sách và đảm bảo đáp ứng đủ cho các hoạt động đầu tư công, nhưng họ thấy rằng thị trường trái phiếu là một cấu phần quan trọng của thị trường tài chính để giúp cho thị trường tài chính phát triển ổn định về dài hạn nên họ vẫn phát hành thêm trái phiếu. Đôi khi phát hành trái phiếu chưa hẳn là nhằm mục đích huy động vốn mà nhằm tạo ra một chất xúc tác giúp thị trường phát triển và từ đó giúp cho thị trường tài chính phát triển có chiều sâu.
Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng dưới con mắt của nhiều NĐT nước ngoài, thị trường trái phiếu Việt Nam còn rất tiềm năng do dư địa cho thị trường phát triển còn lớn. Phản ánh của nhiều NĐT cho thấy, tuy nhu cầu đầu tư vào Việt Nam khá lớn, nhưng họ rất ít có cơ hội nắm bắt thông tin đa dạng, cập nhật về thị trường trái phiếu. Về điều này, VBMA đang nỗ lực cùng với các cơ quan chức năng giải toả nút thắt này. Chúng tôi kỳ vọng, với đà phục hồi của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2011 sẽ tạo ra nhiều tín hiệu tích cực về dòng vốn ngoại chảy vào thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu.
Được biết, sắp tới Bộ Tài chính sẽ nghiên cứu chiến lược phát triển thị trường vốn đến năm 2020, trong đó sẽ chú ý hoàn thiện cơ sở pháp luật, cơ cấu lại thị trường nợ và thị trường vốn, cơ cấu lại tổ chức tham gia thị trường và tăng cường giám sát thị trường... Đây sẽ là những tín hiệu vui cho thị trường vốn nói chung và thị trường trái phiếu Việt Nam nói riêng trong giai đoạn tới.
Xin cảm ơn ông!