Thực trạng hành lang pháp lý
Điểm chung nhất về hành lang pháp lý đối với các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách là hầu hết các quỹ này không được hình thành trên cơ sở của các văn bản pháp luật có cấp độ pháp lý cao như luật hoặc pháp lệnh.
Thay vào đó, các văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động của các quỹ này hoặc là được hình thành bởi các nghị định của Chính phủ; quyết định của Thủ tướng Chính phủ, mà trước đó có thể có hoặc không có những luật chuyên ngành làm nền tảng. Hiện tượng trên cũng không có gì là khó hiểu, bởi hai lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, do phạm vi bao phủ của các quỹ tài chính ngoài ngân sách quá rộng. Hầu như ngành nào của nền kinh tế quốc dân cũng thấy xuất hiện một hoặc một số quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách. Số lượng quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách xuất hiện ở mỗi ngành giữa các thời gian khác nhau có sự khác nhau là do những thay đổi về nhiệm vụ mà mỗi ngành phải đảm nhận đồng hành cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế. Thông thường, khi nền kinh tế quốc dân càng phát triển, thì nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế của mỗi ngành gia tăng. Ví dụ: Trước tháng 6 năm 2010, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ yếu phải thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về trồng trọt và chăn nuôi; nhưng kể từ sau ngày 04/6/2010, Bộ này còn phải đảm nhận thêm nhiệm vụ “…là cơ quan thường trực Chương trình…”, ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/ 6/ 2010 về “Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020”. Hay Bộ Y tế cũng phải đóng vai trò là cơ quan thường trực trong tổ chức quản lý nhiều quỹ tài chính dành cho các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế khác nhau ở các thời gian khác nhau.
Thứ hai, trong hoạt động của bất kỳ một ngành, một lĩnh vực, thậm chí đến từng đơn vị, đều phải dựa trên 3 đầu vào cơ bản: nhân lực, vật lực, tài lực (cách gọi tắt của nguồn lực tài chính). Như vậy, tài chính chỉ là 1 trong 3 nguồn lực đầu vào để tổ chức hoạt động của các chủ thể. Do đó, không thể lấy các yêu cầu của bộ phận để điều chỉnh hoạt động của tổng thể. Ngược lại, sự vận động của bộ phận đó phải đi theo và đảm bảo sự đồng hành với sự vận động của tổng thể.
Từ các phân tích trên cho thấy khả năng xây dựng một luật chung cho các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách không có tính khả thi và càng không thể xây dựng luật riêng cho từng loại quỹ này. Chính vì vậy, chúng ta không nên biện hộ rằng: quản lý tài chính đối với các quỹ ngoài ngân sách thời gian qua chưa tốt là do không có một văn bản pháp luật có tính pháp lý cao điều chỉnh hoạt động này. Thay vào đó, chúng ta phải phát hiện, chỉ rõ các nguyên nhân đã gây ra các yếu kém trong quản lý tài chính quỹ tài chính ngoài ngân sách thời gian qua để tìm ra các biện pháp thích hợp nhằm hạn chế đến mức tối đa khả năng phát sinh những yếu kém đó.
Với tinh thần đó, xin đề cập đến “lỗ hổng pháp lý” trong quản lý các quỹ tài chính ngoài ngân sách ở nước ta thời gian qua đã bộc lộ, bao gồm:
Về Hiến pháp
Để chuẩn bị cho sự thay thế Luật Ngân sách nhà nước (NSNN) năm 1996 bằng Luật NSNN 2002, Quốc hội đã sửa đổi khoản 4 Điều 84 của Hiến pháp từ: “Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán NSNN và phân bổ NSNN, phê chuẩn quyết toán NSNN; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế;” [Hiến pháp 1992], thành “Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán NSNN và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán NSNN; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế;" [Hiến pháp sửa đổi 2001]. Kể từ đó, Hiến pháp đã mở đường cho việc cải hoán hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh vào lĩnh vực quản lý NSNN trong chiến lược cải cách nền hành chính nhà nước từ năm 2001 đến nay.
Bên cạnh đó, xét trên giác độ quản lý dòng tiền của tài chính công, thì quy định trên về quyền của Quốc hội đối với các quỹ tài chính ngoài ngân sách lại chỉ có ở “đầu vào” mà không có ở “đầu ra". Bởi vì: Trong dự toán chi NSNN mà Quốc hội thảo luận và quyết định hàng năm bao gồm các khoản vốn, kinh phí cấp mới hoặc bổ sung cho các quỹ tài chính ngoài ngân sách kỳ kế hoạch – “đầu vào”.
Mặc dù, cách duyệt và chấp nhận cấp vẫn còn nhiều vấn đề phải tiếp tục phải hoàn thiện, nhưng ít ra hàng năm, Quốc hội vẫn có được các thông tin về số tiền cần chi từ NSNN cho các quỹ này. Nhưng sau khi kết thúc mỗi năm ngân sách, các khoản tiền đã cấp cho các quỹ tài chính ngoài ngân sách đã được sử dụng như thế nào? Mang lại những kết quả gì so với mục tiêu kỳ vọng mà do chính các cơ quan có trách nhiệm quản lý mỗi quỹ đã đề xuất và Quốc hội đã chấp thuận – “đầu ra”, thì không được cung cấp đầy đủ tới Quốc hội. Trong báo cáo quyết toán NSNN hàng năm mà Quốc hội thảo luận và phê chuẩn chi phản ánh số tiền đã chi cho các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách.
Chính vì vậy, những năm qua dòng tiền vẫn cứ được “rót” từ NSNN“chảy” vào các quỹ tài chính ngoài ngân sách do nhiều cơ quan khác nhau quản lý và số tiền đó đã được sử dụng, nhưng những lợi ích kinh tế - xã hội mà chúng mang lại chưa cao. Hiện tượng đó đã được người dân phản ánh, Quốc hội cảm nhận được và có yêu cầu Chính phủ giải trình, nhưng vẫn chưa đủ sức nặng để điều chỉnh đối với hoạt động của các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách này.
Phạm vi bao phủ của các quỹ tài chính ngoài ngân sách quá rộng. Hầu như ngành nào của nền kinh tế quốc dân cũng thấy xuất hiện một hoặc một số quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách.
Ở địa phương, bên cạnh ngân sách địa phương cũng tồn tại các quỹ tài chính ngoài ngân sách do địa phương quản lý. Theo thống kê của Bộ Tài chính, đến tháng 6/2012, ở nước ta hiện có 08 quỹ tài chính ngoài ngân sách ở cấp địa phương. Mặc dù vậy, trong Hiến pháp (Hiến pháp 1992, và Hiến pháp sửa đổi 2001), cũng chỉ xác lập thẩm quyền của Hội đồng nhân dân là: “Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước”. Chính quy định này của Hiến pháp cũng làm cho hoạt động quản lý tài chính công ở cấp chính quyền địa phương rơi vào tình trạng tương tự như ở cấp Trung ương: có “đầu vào” mà không có “đầu ra” từ kết quả dùng tiền của các quỹ tài chính ngoài ngân sách.
Về Luật Ngân sách nhà nước
Trong phạm vi của tài chính công, nếu xét theo mục đích và cơ chế quản lý thì bao gồm: Quỹ NSNN và các quỹ ngoài NSNN. Chính vì vậy, Luật NSNN hiện hành (Luật số 01/2002/QH11) chỉ điều chỉnh đối với các quan hệ phát sinh trong quản lý NSNN. Do đó, trong các quy định của Luật NSNN hiện hành không thấy xuất hiện các thuật ngữ về quỹ tài chính ngoài ngân sách là đúng. Tuy nhiên, trong một số Điều, Khoản cụ thể cũng đã bộc lộ những quy định không rõ ràng về phạm vi. Cụ thể:
Luật NSNN hiện hành quy định: “Thu NSNN bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật”. Theo đó, tất cả các khoản thu đã được quy định trên, khi phát sinh phải được tập trung vào NSNN. Quy định này đã trùm lên một số khoản thu mà ngay sau đó Chính phủ lại cho phép một số đơn vị có phát sinh các khoản thu được giữ lại để sử dụng, như: lệ phí, phí thu từ các đơn vị hành chính, sự nghiệp; các khoản thu từ các hoạt động kinh tế của nhà nước có được từ đầu tư vốn của các tập đoàn, các tổng công ty nhà nước… Sự không rõ ràng về phạm vi đã tạo ra “lỗ hổng” pháp lý trong quản lý điều hành NSNN.
Các văn bản dưới luật
Tập hợp các văn bản được thể hiện theo các hình thức: Nghị định, quyết định, thông tư, thông tư liên tịch… cho sự ra đời hay hướng dẫn quản lý một quỹ tài chính nhất định được gọi chung là các văn bản dưới luật điều chỉnh vào hoạt động này. Thực tiễn quản lý các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách ở nước ta hiện nay, các văn bản dưới luật này lại thường có hiệu lực cao; bởi nó nhanh chóng được thay đổi và thích nghi với hoàn cảnh.
Song, đây cũng chính là yếu tố làm suy giảm khả năng kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với hoạt động của các quỹ tài chính ngoài ngân sách; bởi rất dễ xảy ra xung đột giữa các văn bản dưới luật cùng điều chỉnh vào một hoạt động. Ví dụ: giữa quy định của cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập với các quy định chung; giữa các quy định của Trung ương với các quy định của địa phương; giữa các quy định của chính sách với hoàn cảnh kinh tế - xã hội thực tại...
Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 82/QĐ-TTg ngày 26/6/2002. Sau mỗi năm hoạt động, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam chỉ gửi đến Bộ Tài chính Báo cáo quyết toán được gửi chậm nhất vào ngày 30/3 của năm sau để Bộ Tài chính xem xét, thẩm định và phê duyệt.
Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 82/QĐ-TTg ngày 26/6/2002 có quy định “… Vốn điều lệ của Quỹ do NSNN cấp là 200 tỷ đồng. NSNN cấp đủ vốn điều lệ cho Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam trong thời hạn 2 năm, kể từ ngày có quyết định thành lập.”
Mặc dù vậy, Quyết định trên cũng không đưa ra sự ràng buộc về trách nhiệm đáng kể đối với bộ máy quản lý điều hành quỹ (ngoại trừ quy định về bảo toàn quỹ). Sau mỗi năm hoạt động, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam chỉ gửi đến Bộ Tài chính “Báo cáo quyết toán được gửi chậm nhất vào ngày 30/3 của năm sau để Bộ Tài chính xem xét, thẩm định và phê duyệt”.
Quỹ Đầu tư phát triển địa phương được thành lập theo Nghị định 138/2007/NĐ-CP ngày 28/8/2007 với quy mô vốn điều lệ tối thiểu 100 tỷ đồng, ngay từ ngày thành lập [Điều 30, khoản 2]. Trong cơ cấu vốn điều lệ có vốn “…được bố trí trong dự toán chi ngân sách hoặc nguồn tăng thu ngân sách địa phương hàng năm…” [Điều 26, khoản 1, điểm a]. Tuy vậy, kết thúc năm tài chính Quỹ đầu tư phát triển địa phương chỉ phải lập báo cáo tài chính và “Báo cáo tài chính của Quỹ đầu tư phát triển địa phương phải được một tổ chức kiểm toán độc lập kiểm toán”, không thấy trách nhiệm giải trình trước Hội đồng nhân dân tỉnh về kết quả đã dùng tiền của ngân sách cấp này.
Đơn cử một vài quỹ để thấy được sự bất nhất giữa “đầu vào” và “đầu ra” trong quản lý các quỹ tài chính ngoài ngân sách ở nước ta và “lỗ hổng” pháp lý xuất hiện ở các văn bản dưới luật điều chỉnh vào hoạt động này.
Tóm lại, điểm qua thực trạng về các văn bản quy phạm pháp luật từ cao xuống thấp có liên quan đến điều chỉnh các quỹ tài chính ngoài ngân sách ta đều thấy xuất hiện các “lỗ hổng” pháp lý ở các mức độ khác nhau. Nhất thiết phải tìm kiếm các giải pháp để san lấp đến mức tối đa các lỗ hổng đó.
Giải pháp hoàn thiện hành lang pháp lý
Trong phạm vi bài viết không thể đưa ra được các giải pháp mang tính toàn diện về hành lang pháp lý đối với các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách. Tuy nhiên gắn với phạm vi đã giới hạn và gắn với thực trạng đã được phân tích trên đây, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho quản lý các quỹ tài chính ngoài ngân sách, bao gồm:
Một là, khẳng định và làm rõ thẩm quyền của cơ quan quyền lực nhà nước các cấp trong quản lý các quỹ tài chính ngoài ngân sách. Điều này rất cần thiết vì: (i) Đảm bảo sự nhất quán về phạm vi tài chính công của nước ta với thông lệ chung mà quốc tế đang áp dụng bao gồm quỹ NSNN và các quỹ ngoài ngân sách nhà nước; (ii) Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan công quyền – đặc biệt là cơ quan quyền lực nhà nước, trong quản lý tài chính công. Thông qua đó, từng đại biểu của cơ quan quyền lực nhà nước các cấp phải có trách nhiệm toàn diện hơn trước các yêu cầu quản lý tài chính công ở cấp mình; cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước mỗi cấp cũng thấy rõ trách nhiệm của mình hơn trong việc cung cấp các thông tin không chỉ đối với quản lý ngân sách nhà nước, mà còn cả các thông tin về quản lý các quỹ tài chính ngoài ngân sách.
Làm thế nào để thực hiện được giải pháp này? Chúng tôi cho rằng, đây là cơ hội tốt để triển khai thực hiện đề xuất của giải pháp trên; Chúng ta đang trưng cầu ý kiến cho việc hoàn thiện, bổ sung và sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội cần cân nhắc và bổ sung vào Hiến pháp hiện hành các từ ngữ khẳng định thẩm quyền của cơ quan quyền lực nhà nước các cấp trong quản lý các quỹ tài chính ngoài ngân sách. Cụ thể:
Tại khoản 4, Điều 84 của Hiến pháp nên sửa theo hướng quy định quyền của Quốc hội trong việc: "… quyết định dự toán NSNN và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán chi ngân sách trung ương và thẩm định, thông qua kết quả chi ngân sách trung ương cho các quỹ tài chính ngoài ngân sách trung ương cùng kỳ".
Để tăng thêm giá trị pháp lý về thẩm quyền và trách nhiệm của Hội đồng nhân dân trong quản lý tài chính công ở địa phương, Hiến pháp nên bổ sung cụm từ “các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách” vào Điều 120 hiện hành. Khi đó Điều 120 đã được bổ sung sẽ là: Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách và các quỹ tài chính ngoài ngân sách địa phương; về quốc phòng, an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước.
Hai là, cần sửa đổi, bổ sung lại Luật NSNN hiện hành theo hướng phân biệt rõ phạm vi của NSNN và của các quỹ tài chính ngoài ngân sách nhà nước. Muốn đáp ứng được yêu cầu này, trên hai mảng hoạt động thu, chi của NSNN cần phải quy định rõ như sau:
Những khoản thu NSNN là những khoản thu mà NSNN hưởng 100% và đã được Kho bạc Nhà nước kiểm soát và ghi thu. Những khoản thu phát sinh ở các đơn vị có quan hệ với ngân sách nhà nước, nhưng cơ chế tài chính hiện hành đang cho phép các đơn vị đó giữ lại để sử dụng, thì đưa vào nguồn thu của các đơn vị đó. Như vậy, cụm từ “các khoản thu để lại đơn vị sử dung quản lý qua ngân sách nhà nước” mà chúng ta đang dùng hiện nay cần được bãi bỏ.
Những khoản chi của NSNN cũng cần phải được hạch toán tách bạch giữa chi đáp ứng nhu cầu thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước với chi để cấp mới hoặc bổ sung vốn điều lệ cho các quỹ ngoài ngân sách. Muốn vậy, chúng ta phải đổi mới phương thức lập dự toán NSNN theo hướng kết hợp giữa lập ngân sách truyền thống với lập ngân sách theo chương trình và lập ngân sách trung hạn. Trong đó lập ngân sách theo chương trình kết hợp với ngân sách trung hạn được áp dụng cho dự toán chi NSNN cho các quỹ tài chính ngoài ngân sách; còn lập ngân sách truyền thống với ngân sách trung hạn được dùng cho lập dự toán chi NSNN đáp ứng cho các nhu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước thường niên. Cuối mỗi năm, các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ quản lý các quỹ tài chính ngoài ngân sách có trách nhiệm lập báo cáo quyết toán kèm theo giải trình kết quả của việc dùng tiền ngân sách đã chi cho cơ quan, tổ chức mình. Đây cũng được coi là một trong những căn cứ để cơ quan quyền lực nhà nước mỗi cấp có ngân sách xem xét về các đề xuất xin cấp vốn của các cơ quan, tổ chức cho nhiệm vụ quản lý các quỹ tài chính ngoài ngân sách ở những năm tiếp theo. Nhờ đó, dòng tiền của NSNN chi cho các quỹ tài chính ngoài ngân sách có các thông tin về cả “đầu vào” và “đầu ra”. Thông qua đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có thể chắt lọc và loại bỏ sự trùng lặp của chi tiêu công cho cùng một công việc mà Nhà nước phải thực hiện; đồng thời ràng buộc được trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc sử dụng các khoản tiền của tài chính công.
Ba là, đối với các văn bản dưới luật có liên quan đến quản lý các quỹ tài chính ngoài ngân sách, cần phải bổ sung, hoàn thiện theo hướng: quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức được giao quản lý các quỹ tài chính ngoài ngân sách cuối năm tài chính phải lập báo cáo quyết toán kèm theo bản giải trình kết quả hoạt động của đơn vị được đảm bảo từ các khoản chi của NSNNtrong năm. Các báo cáo này phải được gửi tới cơ quan công quyền trực tiếp quản lý chi ngân sách cho sự hình thành nguồn tài chính của quỹ ngoài ngân sách đó.
Kết hợp cả 3 giải pháp trên, trên bàn của các đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước các cấp sẽ có được đầy đủ các thông tin về thu, chi tài chính công (bao gồm cả ngân sách và các quỹ tài chính ngoài ngân sách) của cấp mình hàng năm.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Tài chính, Tài liệu họp Ban soạn thảo dự ản Luật NSNN(sửa đổi) tháng 6/2012;
2. Hiến pháp 1992 và Hiến pháp sửa đổi 2001;
3. Luật NSNN số 01/2002/QH11;
4. Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010.
Thực trạng hành lang pháp lý về quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách
(Tài chính) Trong những năm qua, sự tồn tại và hoạt động của các quỹ tài chính ngoài ngân sách như một hiện tượng hiển nhiên trong đời sống kinh tế, xã hội ở nước ta. Bài viết bàn về thực trạng hành lang pháp lý cho sự ra đời, quản lý hoạt động của các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách ở nước ta và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý trong điều kiện hiện nay.
Xem thêm