Những chuyển biến tích cực
Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2012-2015 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 17/7/2012 kèm theo Quyết định số 929/ QĐ-TTg. Theo đó, các nhiệm vụ cơ bản được xác định bao gồm: (i) Định vị lại vai trò và thu hẹp phạm vi kinh doanh của DNNN; (ii) Đẩy mạnh cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu các DNNN mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% sở hữu. Đối với từng tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, thực hiện cơ cấu lại danh mục đầu tư và ngành nghề kinh doanh, tập trung vào các ngành nghề kinh doanh chính. Đẩy nhanh thực hiện theo nguyên tắc thị trường việc thoái vốn nhà nước đã đầu tư vào các ngành không phải kinh doanh chính; (iii) Đổi mới, phát triển và tiến tới áp dụng đầy đủ khung quản trị hiện đại theo thông lệ của kinh tế thị trường đối với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; (iv) Thực hiện nghiêm pháp luật, kỷ cương hành chính nhà nước và kỷ luật thị trường, đổi mới hệ thống đòn bẩy khuyến khích bảo đảm DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường và cạnh tranh bình đẳng như các DN thuộc các thành phần kinh tế khác.
Thực hiện kế hoạch, nhiệm vụ trên, các cấp, các ngành đã vào cuộc triển khai một cách quyết liệt, trong đó công tác hoàn thiện hành lang pháp lý đã được quan tâm hàng đầu. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 8 nghị định, quyết định quan trọng phục vụ cho công tác sắp xếp đổi mới DNNN, như: Tiêu chí danh mục phân loại DNNN, quy định về tập đoàn kinh tế nhà nước và tổng công ty nhà nước, giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với DNNN trong việc chấp hành pháp luật và tuân thủ các quyết định của chủ sở hữu, quy chế công bố thông tin cổ phần hóa DNNN… Mới đây nhất là Quyết định 51/2014/QĐ-TTg về một số giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại DN và hướng dẫn thực hiện. Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định về Điều lệ tổ chức và hoạt động của 13/14 tập đoàn, tổng công ty nhà nước (Dầu khí, Dệt may, Hóa chất, Điện lực, Công nghiệp Than Khoáng sản, Công nghiệp Cao su, Đường sắt, Hàng không, Hàng hải, Lương thực miền Bắc, Lương thực miền Nam, Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước, Viễn thông Quân đội). Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Đề án tái cơ cấu của 20/20 tập đoàn, tổng công ty nhà nước thuộc thẩm quyền.
Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty nông lâm nghiệp, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Với những hành lang pháp lý được hoàn thiện theo yêu cầu thực tiễn cùng sự vào cuộc mạnh mẽ của các cấp, các ngành, tái cơ cấu DNNN bước đầu đã mang lại nhiều kết quả khả quan. Trong các năm từ 2011 - 2013, cả nước đã sắp xếp được 180 DN, trong đó cổ phần hóa 99 DN với số cổ phần chào bán trị giá gần 19.000 tỷ đồng. Theo kế hoạch, trong giai đoạn 2014-2015, cả nước sẽ thực hiện tái cơ cấu 432 DN, tính riêng trong 10 tháng đầu năm 2014, cả nước đã tái thực hiện cơ cấu được 119 DNNN, trong đó cổ phần hóa 100 DN; đã thoái vốn được trên 3,5 nghìn tỷ đồng, cao gấp hơn 3,6 lần so với năm 2013.
Nhìn chung, vốn của DNNN cơ bản tiếp tục được bảo toàn, năng lực tài chính được bảo đảm: Vốn chủ sở hữu của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước năm 2013 là 959.796 tỷ đồng, tăng 4,1% so với năm 2012; Giá trị tổng tài sản của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước năm 2013 đạt 2.387.150 tỷ đồng, tăng 33% so với năm 2010; Thuế và các khoản phải nộp NSNN năm 2013 đạt 218.915 tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2012 (trong khi năm 2011 giảm 8% và năm 2012 giảm 6%); Tỷ trọng đóng góp vào GDP của khối DNNN đạt mức 34,72% (năm 2009) và đạt 32,4% (năm 2013); Hoạt động sản xuất - kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tương đối ổn định, doanh thu năm 2013 đạt 1.471.018 tỷ đồng; Tạo việc làm cho khoảng trên 1,2 triệu lao động.
Đến nay, phần lớn các tập đoàn, tổng công ty đã thực hiện rà soát, phân loại và xác định danh mục ngành nghề, phạm vi kinh doanh chính, ngành nghề có liên quan và ngành nghề không liên quan. Trên cơ sở đó, đã xác định được các khoản mục đầu tư cần phải thoái vốn, kế hoạch thoái các khoản vốn đầu tư ngoài ngành; tiến hành phân loại các đơn vị trực thuộc, đơn vị thành viên. Một số tập đoàn, tổng công ty đã ban hành mới, bổ sung sửa đổi các quy chế quản lý nội bộ; cơ cấu lại tổ chức, bộ máy và sắp xếp lại cán bộ...
Theo kế hoạch đến cuối năm 2014, sẽ có khoảng 200 DN thực hiện cổ phần hóa và đến cuối quý III/2015, toàn bộ DN được phê duyệt phương án cổ phần hóa để tiến hành bán cổ phần lần đầu và sẽ có 81 DN được sắp xếp theo các hình thức khác.
Một số tồn tại và nguyên nhân
Đánh giá chung về kết quả thực hiện sắp xếp, cổ phần hóa DNNN cho thấy: Về cơ bản, thời gian qua DNNN đã tích cực triển khai sắp xếp, cổ phần hóa; Các cơ chế chính sách về tái cơ cấu, sắp xếp, cổ phần hóa tiếp tục được hoàn thiện theo hướng tạo thuận lợi các DN thực hiện. Tuy nhiên, quá trình sắp xếp, cổ phần hóa diễn ra chậm hơn so với yêu cầu đặt ra do cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan. Cụ thể như, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới và những khó khăn của kinh tế trong nước đã ảnh hưởng đến thị trường tài chính, chứng khoán và kế hoạch bán cổ phần ra công chúng của các DN cổ phần hóa cũng như thoái vốn đầu tư; một số bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước chưa chỉ đạo quyết liệt và tích cực tổ chức triển khai phương án sắp xếp, cổ phần hóa và thoái vốn; Đối tượng sắp xếp, cổ phần hóa hiện nay hầu hết là các DN có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng, kinh doanh đa ngành nghề, tài chính phức tạp nên cần có nhiều thời gian chuẩn bị, xử lý.
Việc thực hiện cổ phần hóa, tái cơ cấu và thoái vốn nhà nước đối với các DN có quy mô vốn lớn cần sự tham gia của nhiều nhà đầu tư lớn, có tiềm lực tài chính và năng lực quản trị, đầu tư tốt. Cùng với đó, chưa có những chuyển biến rõ nét về việc giảm đầu mối quản lý các DNNN. Tình trạng minh bạch thông tin tại các DNNN vẫn dậm chân tại chỗ. Các thông tin về hoạt động của DNNN chỉ được biết đến rất chậm qua các báo cáo tổng hợp của Chính phủ thay vì các bản báo cáo tài chính chi tiết như các DN niêm yết. Một số bộ, ngành, địa phương chưa vào cuộc thực hiện tái cơ cấu DNNN một cách quyết liệt nên vẫn còn tình trạng chậm trễ.
Vừa qua, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã thực hiện công khai các đơn vị chậm trễ CPH. Theo đó, danh sách có sự góp mặt của nhiều bộ, ngành, địa phương: Bộ Công Thương có 16 DN CPH, đã phê duyệt phương án CPH của 2 DN, 6 DN đã thành lập Ban chỉ đạo CPH, 8 DN chưa triển khai; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có 15 DN CPH, 14 DN đã thành lập Ban chỉ đạo CPH, mới công bố giá trị 3 DN và phê duyệt phương án 1 DN; Bộ Y tế có 7 DN CPH thì chưa có phương án nào được phê duyệt. Tại TP. Hồ Chí Minh có 30 DN CPH, mới phê duyệt giá trị của 4 DN; Hải Phòng có 14/15 DN đã thành lập Ban chỉ đạo CPH, chưa DN nào được phê duyệt giá trị và phương án CPH; Nghệ An có 6/6 DN đã thành lập Ban chỉ đạo CPH, chưa có DN nào được phê duyệt giá trị và phương án CPH; Quảng Ninh có 6 DN CPH thì chưa có DN nào được phê duyệt phương án CPH. Đáng chú ý, Hà Nội có tới 20 DN đã thành lập Ban chỉ đạo CPH nhưng chưa tiến hành các bước tiếp theo để CPH. Bên cạnh đó, cả nước hiện còn 84 DN chưa thành lập Ban chỉ đạo CPH, trong đó, Ngân hàng Nhà nước có 2 DN, còn lại là các tỉnh Kon Tum, Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Ngãi, Phú Thọ, Bến Tre, Thanh Hóa, Bình Phước, Bình Dương, Gia Lai.
Sau nhiều năm thực hiện cổ phần hóa, đổi mới DNNN, nhiều chuyên gia kinh tế và các nhà quản lý đúc kết ra một số nguyên nhân căn bản làm cản trở quá trình tái cơ cấu DNNN như sau:
Một là, tư duy kinh tế nhà nước giữ vị trí chủ đạo, trong đó DNNN là một bộ phận quan trọng của khu vực kinh tế này. Để đảm nhiệm được vai trò chủ đạo thì khu vực DNNN sẽ vẫn còn phải đủ lớn và các DNNN sẽ phải thực hiện những nhiệm vụ chính trị và xã hội, ngoài các nhiệm vụ kinh doanh chính. Điều này mâu thuẫn với mục tiêu thu hẹp khu vực DNNN vào các lĩnh vực thuần túy công ích, phục vụ an sinh xã hội. DNNN vẫn giữa vị thế độc quyền tại nhiều ngành nghề quan trọng, cản trở sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân.
Hai là, các quy định liên quan đến thoái vốn đầu tư ngoài ngành chưa linh hoạt. Các quy định về thực hiện bảo toàn và phát triển vốn tại DNNN chưa phù hợp với cơ chế thị trường. Khi nền kinh tế suy thoái, rất khó có thể tìm được nhà đầu tư mua lại phần vốn nhà nước như giá trị sổ sách. Các quy định về định giá vốn tại DNNN cũng rườm rà không theo nguyên tắc thị trường, cản trở quá trình thoái vốn của các DNNN.
Ba là, hiện nay, DNNN kinh doanh thua lỗ, không thanh toán được các khoán nợ đến hạn những vẫn không bị phá sản. Nhà nước về cơ bản vẫn đứng ra gánh chịu các khoản nọ cho DN dưới hình thức giãn nợ, giảm nợ, chuyển nợ cho đơn vị khác hoặc bảo lãnh nợ… Điều này khiến cho những người đại diện chủ sở hữu và những người quản lý DNNN thiếu động lực trong việc tái cơ cấu DNNN.
Bốn là, cơ chế chịu trách nhiệm tập thể đối với DNNN hiện nay vẫn tồn tại. Việc vận hành DNNN được thực hiện không chỉ qua hội đồng quản trị hoặc ban giám đốc mà còn chịu sự chỉ đạo của đảng ủy và các cơ quan chủ quản cấp trên. Do DNNN chịu nhiều đầu mối quản lý nên rất khó xác định được người phải trách nhiệm trong việc vận hành DNNN. Đây là lý do khiến cho các hoạt động tái cơ cấu như cổ phần hóa hoặc thoái vốn ngoài ngành tại các DNNN diễn ra chậm chạp.
Giải pháp đẩy mạnh tái cơ cấu DNNN
Theo kế hoạch, trong giai đoạn 2014 - 2015, cả nước sẽ thực hiện cổ phần hóa 432 DN. Để thực hiện thành công mục tiêu này, mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất - kinh doanh để đạt, vượt mức kế hoạch năm 2014, song song với tái cơ cấu DN một cách toàn diện, từ mô hình tổ chức, quản lý, ngành nghề sản xuất - kinh doanh, chiến lược phát triển, đầu tư, nguồn nhân lực, thị trường... Bên cạnh đó, tiếp tục quán triệt sâu rộng về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, lộ trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước trong các năm 2014 - 2015, coi đây là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm cần khẩn trương và kiên quyết hoàn thành. Các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước có kết quả cổ phần hóa, thoái vốn thấp cần nghiêm túc rút kinh nghiệm, xác định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân; có biện pháp phù hợp để khắc phục, góp phần hoàn thành mục tiêu chung. Các bộ, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước cần bám sát đề án tái cơ cấu, phương án sắp xếp DNNN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chỉ đạo quyết liệt, chặt chẽ và khẩn trương nhiệm vụ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước.
Không dừng lại ở các DN đã có kế hoạch cổ phần hóa, Thủ tướng yêu cầu các bộ, địa phương, tập đoàn kinh tế căn cứ tiêu chí, danh mục phân loại DNNN ban hành tại Quyết định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 18/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ, rà soát, bổ sung DN cần cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước và lộ trình triển khai, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để thực hiện. Đối với một số DN hoạt động trong lĩnh vực công ích như môi trường đô thị, cấp, thoát nước, nếu các nhà đầu tư trong nước có nhu cầu nắm giữ đa số vốn điều lệ thì khuyến khích, với điều kiện DN cam kết cung cấp tốt các dịch vụ công ích này.
Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính cũng đã đề ra một số giải pháp cần tập trung thực hiện, cụ thể:
Thứ nhất, quán triệt sâu sắc các nghị quyết, kết luận của Đảng và các cơ chế, chính sách pháp luật có liên quan của Nhà nước về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Đồng thời, tập trung chỉ đạo triển khai Nghị quyết số 15/ NQ-CP ngày 6/3/2014 của Chính phủ, Quyết định số 51/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số nội dung về thoái vốn, bán cổ phần và đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán của DNNN và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 334/TB-VPCP tại Hội nghị giao ban về tái cơ cấu DNNN tháng 8/2014.
Thứ hai, các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nghiêm túc thực hiện đẩy mạnh sản xuất kinh doanh để đạt, vượt mức kế hoạch năm 2014, đồng thời với tái cơ cấu DN một cách toàn diện, từ mô hình tổ chức, quản lý, ngành nghề sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển, đầu tư, nguồn nhân lực, thị trường… Đặc biệt quan tâm việc tạo ra sản phẩm mới, tăng năng suất lao động, hạ giá thành để nâng cao sức cạnh tranh; Tiếp tục quan triệt sâu rộng về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, lộ trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước trong các năm 2014 – 2015. Các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước có kết quả cổ phần hóa, thoái vốn thấp cần nghiêm túc rút kinh nghiệm, xác định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân; có biện pháp phù hợp để khắc phục, góp phần hoàn thành mục tiêu chung; Các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty bám sát đề án tái cơ cấu, phương án sắp xếp DNNN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chỉ đạo quyết liệt, chặt chẽ và khẩn trương nhiệm vụ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước; Các bộ, địa phương, tập đoàn, tổng công ty căn cứ, tiêu chí, danh mục phân loại DNNN ban hành tại Quyết định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 18/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ, rà soát, bổ sung DN cần cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước và lộ trình triển khai, trong quý III/2014 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để thực hiện; Đẩy mạnh truyền thông và công tác kiểm tra, đôn đốc, giám sát các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong tái cơ cấu DN cùng với thực hiện nhiệm vụ sản xuất – kinh doanh được giao.
Thứ ba, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các cơ chế chính sách để đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu DNNN, như: Sửa đổi quy định về bán, giao DN, hoàn thiện chính sách đối với người lao động dôi dư trong DN sắp xếp, chuyển đổi.
Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Gắn trách nhiệm của người đứng đầu với kết quả và tiến độ thực hiện đề án tái cơ cấu DN.
Thứ năm, thực hiện chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn tại một số DN lớn đã cổ phần hóa đang có vốn nhà nước về Tổng công ty Đầu tư kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) theo quy định.
Thứ sáu, thực hiện các giải pháp tái cấu trúc thị trường chứng khoán theo tinh thần Quyết định số 1826/QĐ-TTg ngày 6/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ, qua đó hỗ trợ thu hút và khuyến khích nhà đầu tư tham gia mua cổ phần của DN. Mặt khác, các đơn vị thực hiện tốt chế độ báo cáo về tình hình triển khai cổ phần hóa DNNN; kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện, đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch đề ra.
Ngoài những giải pháp mang tính cấp bách từ Chính phủ, Bộ Tài chính, ngay từ thời điểm này cũng cần quan tâm đến một số giải pháp sau:
Một là, cải cách cơ chế đại diện chủ sở hữu nhà nước theo hướng tập trung và chuyên nghiệp. Nên chuyển đổi mạnh mẽ việc quản lý các DNNN dưới dạng quỹ quản lý vốn (SCIC) thay vì trực thuộc chính phủ, các bộ, hoặc UBND tỉnh. Trong giai đoạn còn nhiều DNNN như hiện nay có thể nhà nước cần vài công ty kiểu SCIC. Mỗi một công ty quản lý vốn sẽ phụ trách một lĩnh vực hàng hoá và dịch vụ công nào đó. Các SCIC này nên được đặt dưới sự quản lý tạm thời của một Uỷ ban cải cách DNNN có vai trò tương đương một bộ trong Chính phủ. Uỷ ban này có sứ mệnh thực hiện việc tái cơ cấu các DNNN để giảm quy mô và số lượng các DNNN về một mức mục tiêu nào đó, chẳng hạn tỷ trọng đóng góp vào GDP chỉ còn dưới 10% vào năm 2020.
Hai là, cải cách hệ thống trách nhiệm và khuyến khích trong việc quản trị DNNN theo hướng người đại diện vốn chủ sở hữu là giám quản của Nhà nước; người điều hành DNNN được hưởng lợi ích theo cơ sở thị trường. Các giám quản sẽ có trách nhiệm giám sát hoạt động của DNNN hoặc được bổ nhiệm làm thành viên hội đồng quản trị của DNNN. Để đảm bảo người được bổ nhiệm trong hội đồng quản trị của DNNN làm việc vì lợi ích của nhà nước thì người được bổ nhiệm này không được nhận lương hay tiền của DN. Trong khi đó, chế độ lương bổng cho giám đốc hoặc ban điều hành của DNNN sẽ do hội đồng quản trị đề xuất thông qua hội nghị cổ đông hàng năm. Lương cho giám đốc hoặc ban điều hành cần đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường.
Ba là, DNNN phải là khu vực tiên phong về minh bạch thông tin. Cần áp dụng các chuẩn mực tài chính kế toán và công khai hóa thông tin của các công ty niêm yết đối với các DNNN. Các DNNN cũng cần công khai các mục tiêu chính sách, chỉ rõ các chi phí thực hiện để theo đuổi các mục tiêu phi thương mại cũng như các khoản nhận hỗ trợ từ Chính phủ. Bản thân Chính phủ hàng năm cũng cần làm một báo cáo hợp nhất về hoạt động của toàn bộ các công ty quản lý vốn và các DNNN trực thuộc các công ty quản lý vốn.
Tài liệu tham khảo:
1. Tài liệu Hội nghị sơ kết tái cơ cấu DNNN năm 2014;
2. Kỷ yếu Diễn đàn kinh tế Mùa thu 2014;
3. Báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII về tái cơ cấu nền kinh tế;
4. Báo cáo tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2013 của các DN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và DN có cổ phần, vốn góp của Nhà nước;
5. Cổng thông tin điện tử Chính phủ; Cổng thông tin Bộ Tài chính; Tạp chí Tài chính…
Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước
(Tài chính) Là một trong 3 trụ cột chính trong Đề án tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đã được Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương triển khai trong thời gian qua. Kết quả ban đầu đã ghi nhận đạt chuyển biến khả quan, tuy nhiên so với yêu cầu thực tiễn vẫn còn thấp và nhiệm vụ đặt ra từ nay đến hết năm 2015 là hết sức nặng nề…
Xem thêm