Tìm cách giảm rủi ro trong tiếp cận và cho vay vốn
Thay vì tìm cách hạ lãi suất hơn nữa và rồi đi kèm với rủi ro là lạm phát quay lại, theo TS. Phan Minh Ngọc, Phó giám đốc Nghiên cứu doanh nghiệp của Ngân hàng Sumitomo Mitsui, chi nhánh Singapore, điều cần làm là tìm cách giảm được mức độ rủi ro trong tiếp cận và cho vay từ phía doanh nghiệp và ngân hàng, để vốn ngân hàng đến được nơi cần đến.

Tin ai, ngân hàng hay doanh nghiệp?
Đang có hai luồng ý kiến khác nhau về lãi suất cho vay. Phía ngân hàng cho rằng, tín dụng không thể tăng trưởng là do khả năng hấp thụ của nền kinh tế, và lãi suất hiện giờ không còn là vấn đề chính của doanh nghiệp. Trong khi đó, vẫn có những tiếng nói của doanh nghiệp kêu rất khó tiếp cận vốn và lãi suất hiện vẫn cao. Theo ông, nên tin ai, ngân hàng hay doanh nghiệp?
Nhưng không thể tuyệt đối hóa, cực đoan hóa hiện tượng này và nói tất cả các doanh nghiệp đều khó tiếp cận vốn và với lãi suất cao. Khó hay không và cao hay không phụ thuộc hoàn toàn vào chất lượng của doanh nghiệp và mục đích và tính khả thi của dự án vay vốn của doanh nghiệp. Không ngân hàng nào dại dột ngoảnh mặt với những doanh nghiệp tốt cả. Và việc tín dụng vẫn tăng trưởng dương là một bằng chứng đầy thuyết phục rằng ngân hàng vẫn cho vay, hoặc nói cách khác, nhiều doanh nghiệp vẫn vay được và với lãi suất chịu được đấy chứ? Tất nhiên cũng phải công nhận con số doanh nghiệp vay được này không thể bằng được trước đây, nhưng đó là sự việc tất yếu đi kèm với mỗi giai đoạn suy giảm tăng trưởng.
Và thậm chí cho dù tăng trưởng có chững lại, tụt xuống dưới âm thì mọi người trong xã hội vẫn cần phải ăn, mặc, đi lại và tiêu dùng cái gì đó, có nghĩa là chí ít các doanh nghiệp vẫn nhìn thấy cơ hội, từ đó sẽ vay vốn nhằm duy trì sản xuất kinh doanh đáp ứng được những nhu cầu này của xã hội. Và tất nhiên cũng cần phải thừa nhận nhu cầu đó có thể nhỏ đi và, do đó, quy mô sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp có thể cũng sẽ nhỏ đi so với trước. Nhưng đây cũng là điều tất yếu đi kèm với tăng trưởng suy giảm.
Dòng vốn bị tắc, theo ông, có phải là nút thắt của nền kinh tế hiện nay không?
Song, điều quan trọng là phải thấy rằng sự việc là như vậy nhưng không thể giải quyết nhanh chóng bằng những biện pháp cực đoan mà một số người đang hô hào như dùng mệnh lệnh buộc ngân hàng thương mại phải hạ tiêu chuẩn cho vay xuống hoặc cấp thẳng vốn từ ngân sách hay từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho các doanh nghiệp được. Giải quyết tình trạng này cần thời gian không phải ngắn, tính bằng tháng, mà tính theo vài quý đến hàng năm, cũng như cần nhiều giải pháp kinh tế và ít giải pháp hành chính nếu không muốn mọi sự phục hồi của nền kinh tế, nếu có, chỉ là tạm thời để rồi lại nhanh chóng rơi vào suy sụp ở mức độ còn lớn hơn.
Như đã nói ở trên, khi bẫy thanh khoản đã xảy ra thì dùng công cụ lãi suất để kích thích đầu tư quả thật sẽ không còn nhiều tác dụng. Cũng phải nhắc lại luận điểm đầy cảm tính của nhiều chuyên gia trước đây, coi hạ lãi suất là chìa khóa cho sự phục hồi đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Lúc đó, lãi suất cho vay vượt trên 20%/năm, họ cho rằng để doanh nghiệp sống được và kinh doanh có lãi thì lãi suất phải ở mức 15%. Thế rồi lúc lãi suất hạ xuống 15% thì họ lại kêu gọi NHNN hạ lãi suất xuống nữa thì doanh nghiệp mới có lãi. Và nay thế nào thì đã rõ. Vậy, lãi suất thấp không luôn luôn là đũa thần cho phục hồi kinh tế.
Để khơi dòng vốn, chính sách tiền tệ giờ đã không còn dư địa nữa, vì thế, đến lúc phải dùng cả chính sách tài khóa, ví dụ, tăng bội chi, nới giới hạn nợ công... Ông có ủng hộ quan điểm này không?
Ngược lại, có nên dùng bội chi ngân sách để kích thích đầu tư, tiêu dùng và tăng trưởng hay không là câu hỏi không dễ trả lời. Vấn đề là chúng ta có nên chấp nhận đánh đổi lòng tin vào chính sách, vào các cam kết ổn định vĩ mô bước đầu đã ra hình hài, có nên hy sinh những nỗ lực ổn định hóa trong suốt 2 năm qua trong khuôn khổ của một nỗ lực lớn hơn, bao trùm lên trên hết – tái cơ cấu toàn diện nền kinh tế - để đổi lấy sự phục hồi kinh tế chắc chắn sẽ là mong manh, ngắn hạn, nếu có?
Theo ông, chính sách tài khóa và tiền tệ nên phối hợp với nhau như thế nào trong hoàn cảnh hiện nay?
Xin cảm ơn ông!