Thực trạng xử lý nợ, tái cơ cấu doanh nghiệp của DATC
Là doanh nghiệp (DN) 100% vốn Nhà nước trực thuộc sự quản lý của Bộ Tài chính, Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) được thành lập năm 2003 theo Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg ngày 5/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ. Nhiệm vụ chính của DATC là mua để xử lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng của DNNN nhằm đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa, đổi mới, tái cơ cấu và nâng cao hiệu hoạt động của DN.
Trong giai đoạn đầu hoạt động, DATC chủ yếu tập trung tiếp nhận và xử lý nợ theo chỉ đạo của Chính phủ. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu mới, từ năm 2007 đến nay, DATC hướng hoạt động vào trọng tâm chính là “xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu DN”. Đây là hoạt động hoàn toàn mới trong môi trường kinh doanh của Việt Nam nói chung và DATC nói riêng, nhưng chỉ sau một thời gian triển khai nó đã mang lại hiệu quả tích cực. Sau gần 6 năm triển khai nghiệp vụ tái cơ cấu DN thông qua xử lý nợ, tính đến 31/12/2011, DATC đã mua nợ để tái cơ cấu cho 72 DN khách nợ, gồm 44 DN đã hoàn thành và 28 DN đang triển khai, với giá trị các khoản nợ theo sổ sách kế toán khoảng trên 6.256 tỷ đồng, giá vốn mua nợ trên 1.640 tỷ đồng (tỷ lệ mua nợ bình quân là 26,2%), đã thu hồi được trên 1.486 tỷ đồng, tỷ lệ thu hồi đạt 90,6%. Trong đó, riêng tại 44 DN đã thực hiện tái cơ cấu có giá trị các khoản nợ theo sổ sách kế toán là 4.010,45 tỷ đồng, giá vốn mua nợ 1.169,82 tỷ đồng (tỷ lệ mua nợ bình quân là 29,2%), đã thu hồi nợ được 1.238,71 tỷ đồng (bao gồm cả chuyển nợ thành vốn góp cổ phần 453,96 tỷ đồng), tỷ lệ thu hồi đạt 110%, bao gồm 23 DN 100% vốn nhà nước và 21 công ty cổ phần là những DN được cổ phần hóa từ DN 100% vốn nhà nước.
Như vậy, trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2011, DATC đã xử lý tài chính giai đoạn 1 cho 44 DN tái cơ cấu thành công, với số tiền là 2.290,20 tỷ đồng và dự kiến sẽ xử lý tiếp tài chính giai đoạn 2 cho một số DN này, đang còn khó khăn về tài chính, với số tiền khoảng 402,350 tỷ đồng. Một số DN được DATC mua nợ, xử lý tài chính, tái cơ cấu thông qua việc chuyển nợ thành vốn góp cổ phần, đã phát triển tốt, kinh doanh có hiệu quả, các chỉ tiêu như doanh thu, cổ tức, lợi nhuận, nộp ngân sách nhà nước, thu nhập bình quân của người lao động năm sau cao hơn năm trước. Đặc biệt, trong số các DN được DATC thực hiện tái cơ cấu đến nay đã có ba DN niêm yết trên giàn giao dịch chứng khoán, đó là Công ty cổ phần Mía đường Sơn La (SLS), Công ty cổ phần Sadico Cần Thơ (SDG), Công tỷ cổ phần Đường Kon Tum (KTS). Không chỉ có vậy, hiện DATC đang đẩy mạnh hoàn thiện việc tái cơ cấu 28 DN, với giá trị các khoản nợ theo kế toán là 2.245,613 tỷ đồng, giá vốn mua nợ là 470,518 tỷ đồng (tỷ lệ mua nợ bình quân là 21%) và đến nay đã thu hồi được 202,664 tỷ đồng, tỷ lệ thu hồi đạt 43%. Tiến trình tái cơ cấu 28 DN trên, đã được chia làm 2 giai đoạn, trong đó, giai đoạn 1 của công tác xử lý tài chính với số tiền là 88,121 tỷ đồng và giai đoạn 2 với số tiền khoảng 1.747,6 tỷ đồng để hoàn thành việc tái cơ cấu.
Đánh giá chung, DATC đã làm khá tốt xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu DN, tuy nhiên, trên thực tế các trường hợp nợ xấu DATC đã mua lại và đã xử lý có giá trị không lớn và chưa phải là các trường hợp phức tạp, chủ yếu mới chỉ xử lý về tài chính, việc tái cơ cấu hoạt động còn hạn chế. Đây cũng là tồn tại, hạn chế hiện DATC đang gặp cần tháo gỡ trong thời gian tới.
Một số khó khăn trong xử lý nợ xấu, tái cơ cấu doanh nghiệp
Mặc dù đã đạt được một số kết quả khả quan trong thực hiện xử lý nợ xấu, tái cơ cấu DN, nhưng thực tế hoạt động trong thời gian qua, DATC cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Cụ thể như, môi trường pháp lý, kinh doanh, trong đó có lĩnh vực xử lý nợ và tài sản tồn đọng vẫn còn nhiều trở ngại cho hoạt động của DATC. Cụ thể như:
Mâu thuẫn giữa các mục tiêu hoạt động của DATC
Với vai trò là công cụ quan trọng của Chính phủ, Bộ Tài chính trong việc xử lý nợ và tài sản tồn đọng để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa, tái cơ cấu của DNNN thành công, tuy nhiên do mâu thuẫn giữa các mục tiêu đặt ra trong hoạt động của DATC nên đã ảnh hưởng đến kết quả hoạt động nghiệp vụ. Yêu cầu đặt ra đối với DATC là phải có hiệu quả kinh tế trong mỗi giao dịch mua bán nợ, đảm bảo an toàn và phát triển vốn giống như một DN kinh doanh thông thường của Nhà nước. Hai mục tiêu này đang mâu thuẫn với nhau. Bởi, hoạt động mua, bán, xử lý nợ có tính đặc thù mang yếu tố rủi ro rất cao, về bản chất các khoản nợ thường có chất lượng xấu, rất dễ gây thua lỗ, rất khó để đảm bảo cùng một lúc vừa xử lý nhanh các khoản nợ, vừa đảm bảo lợi nhuận.
Trước các mục tiêu, yêu cầu đặt ra như vậy tác động không nhỏ đến hoạt động của DATC, buộc DATC luôn phải đề phòng các rủi ro trong mua bán nợ, chỉ thực hiện mua những khoản nợ nào chắc chắn có lãi, đảm bảo an toàn. Điều này đã phần nào tác động đến tiến độ và kết quả xử lý nợ, tiến trình cổ phần hóa, số lượng giao dịch cũng như quy mô nợ đã mua và kết quả xử lý của DATC còn thấp so với kỳ vọng và thực trạng của nền kinh tế.
Thiếu hướng dẫn chi tiết về vai trò của DATC trong việc tái cơ cấu hoạt động các DNNN
Mặc dù đã hoạt động từ năm 2003, tuy nhiên cho đến nay các cấp hữu quan vẫn chưa có những hướng dẫn chi tiết về quyền, thủ tục, biện pháp DATC được phép can thiệp, tái cơ cấu DNNN, đặc biệt là các DN mà Nhà nước nắm giữ quyền sở hữu (ví dụ quyền tham gia tổ chức, quản lý, bố trí xắp xếp nhân sự, tổ chức lại hoạt động kinh doanh…). Nếu không có hướng dẫn rõ ràng, DATC sẽ không thể tham gia vào quá trình tái cơ cấu DNNN một cách có hiệu quả.
Hạn chế trong quy định về sử dụng vốn đầu tư của DATC
Một trong các nguyên nhân làm hạn chế hoạt động mua, xử lý nợ của DATC thời gian qua là quy định về ưu tiên phân bổ vốn cho việc mua nợ tồn đọng của DN 100% vốn nhà nước. Cụ thể như tại Khoản 1.a Điều 8 của Thông tư 79/2011/TT-BTC yêu cầu DATC phải sử dụng tối thiểu 70% tổng nguồn vốn đầu tư để mua các khoản nợ và tài sản đối với khách nợ là DN do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ thực hiện sắp xếp, chuyển đổi sở hữu và lành mạnh hóa tình hình tài chính trong quá trình kinh doanh. Quy định này đang làm hạn chế khả năng của DATC trong tái cơ cấu DN đã mua nợ và trong một số hoạt động hoàn toàn nằm trong nhiệm vụ đã được giao hiện nay như tham gia các phương án xử lý nợ có tiềm năng khác. Ví dụ, (i) mua và xử lý nợ xấu của các đối tượng DNNN đã cổ phần hóa, Nhà nước vẫn giữ cổ phần chi phối; (ii) mua và xử lý nợ xấu của các DN khác...
Hạn chế của mô hình mua nợ xấu hiện nay
Hiện nay, DATC mua nợ xấu hoàn toàn bằng tiền mặt do đó dẫn đến một số bất cập như: DATC không thu lại được tiền ban đầu trả cho người bán, giá vốn xử lý nợ cao hơn (do phải tính cả tiền lãi suất trên số tiền bỏ ra trả cho người bán). Áp lực về việc tạo ra lợi nhuận đối với DATC làm cho quá trình lựa chọn phân tích, tính toán phương án trả nợ thương thảo, thỏa thuận với ngân hàng bị kéo dài. Ngoài ra, bên bán cũng khó ra quyết định vì sợ có thể giá bán thấp hơn giá trị thực tế của khoản nợ có thể thu hồi, ngân hàng phải ghi nhận lỗ ngay khi bán nợ thấp hơn giá trị sổ sách trong khi không được chia sẻ lợi nhuận mang lại trong trường hợp DATC xử lý thành công. Mặt khác, do phải dùng tiền mặt trả cho chủ nợ, nguồn lực tài chính của DATC cho việc tái cơ cấu tài chính và hoạt động của chủ nợ sẽ bị giảm xuống.
Hạn chế về quyền áp dụng các biện pháp xử lý nợ xấu
Trong quá trình hoạt động nghiệp vụ, thực tế DATC đã gặp phải một số hạn chế về quy định đối với việc thực hiện các biện pháp tái cơ cấu DN và thu hồi nợ. Điển hình như:
- Về cho vay/hoặc bảo lãnh vay: Một nguyên tắc cơ bản là để tái cơ cấu khách nợ cần có nguồn lực về tài chính và dòng tiền bổ sung là cần thiết để hỗ trợ các công ty đang tái cơ cấu. Công ty đang tái cơ cấu luôn gặp khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng ngân hàng vì họ có xếp hạng tín dụng thấp, không dễ huy động vốn từ nhà đầu tư khi chưa tái cơ cấu. Vì vậy, nỗ lực tái cơ cấu kinh doanh của các DN dễ thất bại do thiếu tiền để tháo gỡ khó khăn hiện tại, đầu tư bổ sung. Trong khi đó, các biện pháp xử lý nợ xấu áp dụng trong quá khứ chủ yếu mang tính hành chính, không liên quan đến tái cơ cấu công ty.
Hiện nay DATC không được phép cho các DN đã tái cơ cấu vay tiền/hoặc bảo lãnh vay tiền. Điều này làm hạn chế vai trò của DATC, các hoạt động của DATC cho các DN không tạo được giá trị tăng thêm vì vậy dẫn đến kết quả tái cơ cấu hạn chế vì DN không có đủ nguồn tài chính để thực hiện phương án tái cơ cấu hoạt động.
- Chiết khấu trả nợ: Trong một số trường hợp, để giải quyết dứt điểm khoản nợ tồn đọng, DN khách nợ mong muốn chủ nợ hỗ trợ giảm một phần nợ. Nếu đạt được thỏa thuận, khách nợ sẽ cố gắng bố trí nguồn vốn để trả nợ dứt điểm. Kỹ thuật này gọi là chiết khấu để khách nợ trả hết nợ (Discount Pay Off). Kỹ thuật xử lý nợ xấu này rất phổ biến đối các tổ chức mua bán nợ trên thế giới để đạt được kết quả hai bên cùng thắng (win-win), các bên cùng có lợi thông qua việc thể hiện thiện chí của mình. Trong nhiều trường hợp, các DN rất sợ việc không trả được nợ sẽ ảnh hưởng đến xếp hạng tín dụng của công ty và khó khăn trong việc vay nợ mới, triển khai các hoạt động đầu tư cần tài trợ mới của bên ngoài. Do vậy, khách nợ có thể cố gắng tự thu xếp tìm nguồn phù hợp khác nhau để giải quyết nợ tồn đọng nếu như có sự hỗ trợ từ bên cho vay. Tuy nhiên, Điều lệ tổ chức hoạt động của DATC chưa có điều khoản cho phép DATC áp dụng kỹ thuật thu hồi nợ này và đây là điểm làm hạn chế khả năng xử lý nợ của DATC.
Thiếu động lực và sức ép để xử lý nợ xấu
Mặc dù tình hình nợ xấu đã ở mức độ đáng báo động, các ngân hàng vẫn không chịu áp lực để chuyển giao hoặc bán nợ xấu cho DATC vì họ không được yêu cầu chính thức làm việc đó trong một hạn định về mức độ và thời gian. Các ngân hàng thương mại nhà nước và DNNN thiếu động lực để xử lý nợ xấu. Thông thường ngân hàng sẽ không muốn bán nợ xấu có tài sản bảo đảm và nợ có khả năng thu hồi. Đối với các khoản nợ xấu mà họ thực sự muốn loại bỏ, các ngân hàng cũng sẽ không muốn bán ở một mức giá thấp hơn giá trị sổ sách vì như vậy có thể làm cho ngân hàng phải ghi nhận khoản lỗ từ khoản nợ xấu này ngay lập tức. Trở ngại này cũng phần nào ảnh hưởng đến hoạt động của DATC.
Hạn chế trong tiếp cận thông tin
Về nguyên tắc, DATC được phép truy cập và sử dụng thông tin có liên quan được lưu giữ ở các cơ quan nhà nước, chẳng hạn như các cơ quan thuế, bộ phận tài chính của các DN, cơ quan đăng ký kinh doanh và các trung tâm giao dịch chứng khoán, cũng như thông tin có liên quan được lưu giữ ở các ngân hàng thương mại, các bên cho vay, chủ sở hữu tài sản và các bên đi vay. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận với các thông tin cần thiết và sự hợp tác trong việc cung cấp thông tin của các bên cho vay (các ngân hàng thương mại) và các DNNN vay nợ vẫn là một trở ngại. Trong thực tế, hầu hết các cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam đều thiếu thông tin tài chính từ các DNNN được cập nhật thường xuyên. DATC bởi vậy cũng không thể có cơ chế hiệu quả để buộc các ngân hàng và DN cung cấp đầy đủ thông tin và hợp tác với DATC nhằm đưa ra các giải pháp và càng không có quyền lực đặc biệt nào để tiến hành điều tra về nợ xấu.
Thiếu khuyến khích đối với các nhà đầu tư chiến lược
Do bị hạn chế trong việc tiếp cận để xử lý nợ xấu nên DATC không thể có cơ chế, nguồn lực tài chính và con người để tái cơ cấu tài chính của DNNN vay nợ. Để hoạt động tái cơ cấu DN hiệu quả, vai trò của nhà đầu tư chiến lược là rất quan trọng và cần phải tạo ra sự hấp dẫn để thu hút họ tham gia vào các giao dịch tái cơ cấu. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn thiếu cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư chiến lược tham gia vào hoạt động này. Theo quy định hiện hành, tại thời điểm cổ phần hóa, các nhà đầu tư chiến lược mua cổ phần ở mức giá trúng đấu giá bình quân. Điều này không thể khuyến khích các nhà đầu tư chiến lược vì họ có thể phải bỏ ra nguồn lực đáng kể để nghiên cứu và lập một kế hoạch khôi phục khả dĩ cho các DNNN.
Để tích cực tham gia vào quá trình tái cơ cấu, nhà đầu tư chiến lược thường đòi hỏi được nắm lượng cổ phần lớn. Trong các quy định hiện hành, các nhà đầu tư nước ngoài không được phép mua hơn 30% cổ phần của các DN Việt Nam chưa niêm yết và 49% cổ phần của các công ty đã niêm yết. Điều này sẽ làm cho các nhà đầu tư chiến lược tiềm năng né tránh tham gia vào việc tái cơ cấu các công ty vay nợ vì họ không thể chắc chắn liệu họ có thể kiểm soát được việc tái cơ cấu hay không.
Giải pháp tăng cường vai trò và hoạt động của DATC
Để khắc phục một số khó khăn tồn tại, phát huy vai trò, vị thế của DATC trong hoạt động xử lý nợ xấu, tái cơ cấu DN cần có những giải pháp hữu ích, cụ thể trong bối cảnh hiện nay.
Thứ nhất, thống nhất định hướng, cách tiếp cận và xây dựng chiến lược cho DATC phù hợp với tình hình kinh tế và chủ trương của Chính phủ.
Thứ hai, phân công rõ ràng vai trò và giao cho DATC có những quyền hạn nhất định trong việc tái cơ cấu DNNN.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung các quy định đang hạn chế khả năng thực hiện nhiệm vụ của DATC như: Cho phép, tạo điều kiện cho DATC áp dụng mô hình mua nợ mới; Tăng cường quy mô hoạt động, nguồn lực tài chính cho DATC, để DATC tham gia sâu hơn vào chương trình cải cách DNNN và xử lý nhiều hơn nợ xấu trong nền kinh tế; Cần xem xét lại về thuế liên quan hoạt động của DATC trong việc thu mua và giải quyết nợ xấu. Việc xử lý thuế cần được thực hiện như một động cơ để các bên cho vay/ngân hàng chuyển giao nợ xấu cho DATC theo mô hình thu mua nợ xấu mới để tạo điều kiện thuận lợi cho DATC giải quyết nợ xấu một cách hiệu quả; Thay đổi quy định về tỷ lệ tối thiểu vốn sử dụng cho mua nợ của DN 100% vốn Nhà nước nhằm tăng thêm quyền tự chủ cho DATC trong sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, tăng quyền chủ động cho DATC trong việc giải quyết nợ xấu, nhằm đa dạng các hình thức xử lý nợ. DATC cần có quyền chủ động việc thực hiện các biện pháp giải quyết, xử lý nợ xấu, được trao quyền hạn và tự do trong việc áp dụng các cách tiếp cận giải quyết thích hợp. Khả năng thực hiện biện pháp chiết khấu nợ như là một trong các phương pháp giải quyết hoặc thương lượng việc gia hạn các hình thức tái cơ cấu khác phải thuộc quyền quyết định của DATC.
Thứ năm, Ngân hàng Nhà nước cần đưa ra một loạt các biện pháp mạnh về xử lý nợ xấu. Trong đó, yêu cầu tất cả các ngân hàng và tổ chức tín dụng duy trì nợ xấu trong mức độ an toàn. Nếu nợ xấu vượt quá mức độ cho phép, phải bán/chuyển giao nợ xấu cho DATC hoặc bị hạn chế một số hoạt động cho đến khi xử lý được nợ xấu, giảm tỷ lệ nợ xấu xuống mức chấp nhận được để đảm bảo an toàn cả hệ thống tài chính ngân hàng. Việc này sẽ làm cho các ngân hàng sẵn sàng làm việc với DATC.
Thứ sáu, có chính sách ưu đãi nhà đầu tư chiến lược, đặc biệt đối với trường hợp tái cơ cấu, chuyển đổi DNNN không còn vốn nhà nước thành công ty cổ phần. Để thu hút các nhà đầu tư chiến lược tham gia vào việc tái cơ cấu nợ nhằm giải quyết nợ xấu với DATC, Chính phủ sẽ đưa ra một số ưu đãi, bao gồm: Bán cổ phần DNNN cho các nhà đầu tư chiến lược với mức giá thỏa thuận, thay vì mức giá trúng thầu trung bình; cụ thể hóa quy định liên quan đến mua cổ phần của cổ đông chiến lược nước ngoài trong các trường hợp để xử lý nợ xấu cùng với DATC; chỉ nên hạn chế đối với một số ngành cụ thể, các công ty đại chúng và các công ty lớn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và các ngành công nghiệp.
Thứ bảy, cải tiến cơ cấu tổ chức và nâng cao năng lực cho DATC. Các DNNN hoạt động kém ở Việt Nam đang cần phải tái cơ cấu hoạt động. Cổ phần hóa mà không tái cơ cấu hoạt động sẽ không thể giúp các DNNN hoạt động hiệu quả hơn. Bằng việc tham gia bộ máy quản lý của một số DNNN, bao gồm cả các tổng công ty, DATC sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận với các thông tin và dữ liệu đáng tin cậy của DNNN để hiểu rõ hơn tình hình kinh doanh của họ. Đây là một lợi thế của DATC để mở rộng vai trò tham gia vào quá trình cải cách DNNN.
Để DATC thực hiện vai trò một cách hiệu quả, một số điều kiện cần phải được đáp ứng như sau: Nợ xấu ở Việt Nam hiện nay ở mức cao, nhu cầu xử lý nợ là rất lớn, gắn với xử lý nợ là việc tái cơ cấu DN. DATC có vị trí rất phù hợp để tham gia nhiều hơn vào hoạt động xử lý nợ ở Việt Nam và qua đó thực hiện tái cơ cấu DN. Tuy nhiên, vai trò và hoạt động của DATC phụ thuộc vào quan điểm, định hướng của Chính phủ sử dụng DATC như thế nào trong chiến lược chung về xử lý nợ xấu và tái cơ cấu DNNN để từ đó xây dựng các chính sách phù hợp cho hoạt động của DATC.
Là doanh nghiệp (DN) 100% vốn Nhà nước trực thuộc sự quản lý của Bộ Tài chính, Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) được thành lập năm 2003 theo Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg ngày 5/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ. Nhiệm vụ chính của DATC là mua để xử lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng của DNNN nhằm đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa, đổi mới, tái cơ cấu và nâng cao hiệu hoạt động của DN.
Trong giai đoạn đầu hoạt động, DATC chủ yếu tập trung tiếp nhận và xử lý nợ theo chỉ đạo của Chính phủ. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu mới, từ năm 2007 đến nay, DATC hướng hoạt động vào trọng tâm chính là “xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu DN”. Đây là hoạt động hoàn toàn mới trong môi trường kinh doanh của Việt Nam nói chung và DATC nói riêng, nhưng chỉ sau một thời gian triển khai nó đã mang lại hiệu quả tích cực. Sau gần 6 năm triển khai nghiệp vụ tái cơ cấu DN thông qua xử lý nợ, tính đến 31/12/2011, DATC đã mua nợ để tái cơ cấu cho 72 DN khách nợ, gồm 44 DN đã hoàn thành và 28 DN đang triển khai, với giá trị các khoản nợ theo sổ sách kế toán khoảng trên 6.256 tỷ đồng, giá vốn mua nợ trên 1.640 tỷ đồng (tỷ lệ mua nợ bình quân là 26,2%), đã thu hồi được trên 1.486 tỷ đồng, tỷ lệ thu hồi đạt 90,6%. Trong đó, riêng tại 44 DN đã thực hiện tái cơ cấu có giá trị các khoản nợ theo sổ sách kế toán là 4.010,45 tỷ đồng, giá vốn mua nợ 1.169,82 tỷ đồng (tỷ lệ mua nợ bình quân là 29,2%), đã thu hồi nợ được 1.238,71 tỷ đồng (bao gồm cả chuyển nợ thành vốn góp cổ phần 453,96 tỷ đồng), tỷ lệ thu hồi đạt 110%, bao gồm 23 DN 100% vốn nhà nước và 21 công ty cổ phần là những DN được cổ phần hóa từ DN 100% vốn nhà nước.
Như vậy, trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2011, DATC đã xử lý tài chính giai đoạn 1 cho 44 DN tái cơ cấu thành công, với số tiền là 2.290,20 tỷ đồng và dự kiến sẽ xử lý tiếp tài chính giai đoạn 2 cho một số DN này, đang còn khó khăn về tài chính, với số tiền khoảng 402,350 tỷ đồng. Một số DN được DATC mua nợ, xử lý tài chính, tái cơ cấu thông qua việc chuyển nợ thành vốn góp cổ phần, đã phát triển tốt, kinh doanh có hiệu quả, các chỉ tiêu như doanh thu, cổ tức, lợi nhuận, nộp ngân sách nhà nước, thu nhập bình quân của người lao động năm sau cao hơn năm trước. Đặc biệt, trong số các DN được DATC thực hiện tái cơ cấu đến nay đã có ba DN niêm yết trên giàn giao dịch chứng khoán, đó là Công ty cổ phần Mía đường Sơn La (SLS), Công ty cổ phần Sadico Cần Thơ (SDG), Công tỷ cổ phần Đường Kon Tum (KTS). Không chỉ có vậy, hiện DATC đang đẩy mạnh hoàn thiện việc tái cơ cấu 28 DN, với giá trị các khoản nợ theo kế toán là 2.245,613 tỷ đồng, giá vốn mua nợ là 470,518 tỷ đồng (tỷ lệ mua nợ bình quân là 21%) và đến nay đã thu hồi được 202,664 tỷ đồng, tỷ lệ thu hồi đạt 43%. Tiến trình tái cơ cấu 28 DN trên, đã được chia làm 2 giai đoạn, trong đó, giai đoạn 1 của công tác xử lý tài chính với số tiền là 88,121 tỷ đồng và giai đoạn 2 với số tiền khoảng 1.747,6 tỷ đồng để hoàn thành việc tái cơ cấu.
Đánh giá chung, DATC đã làm khá tốt xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu DN, tuy nhiên, trên thực tế các trường hợp nợ xấu DATC đã mua lại và đã xử lý có giá trị không lớn và chưa phải là các trường hợp phức tạp, chủ yếu mới chỉ xử lý về tài chính, việc tái cơ cấu hoạt động còn hạn chế. Đây cũng là tồn tại, hạn chế hiện DATC đang gặp cần tháo gỡ trong thời gian tới.
Một số khó khăn trong xử lý nợ xấu, tái cơ cấu doanh nghiệp
Mặc dù đã đạt được một số kết quả khả quan trong thực hiện xử lý nợ xấu, tái cơ cấu DN, nhưng thực tế hoạt động trong thời gian qua, DATC cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Cụ thể như, môi trường pháp lý, kinh doanh, trong đó có lĩnh vực xử lý nợ và tài sản tồn đọng vẫn còn nhiều trở ngại cho hoạt động của DATC. Cụ thể như:
Mâu thuẫn giữa các mục tiêu hoạt động của DATC
Với vai trò là công cụ quan trọng của Chính phủ, Bộ Tài chính trong việc xử lý nợ và tài sản tồn đọng để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa, tái cơ cấu của DNNN thành công, tuy nhiên do mâu thuẫn giữa các mục tiêu đặt ra trong hoạt động của DATC nên đã ảnh hưởng đến kết quả hoạt động nghiệp vụ. Yêu cầu đặt ra đối với DATC là phải có hiệu quả kinh tế trong mỗi giao dịch mua bán nợ, đảm bảo an toàn và phát triển vốn giống như một DN kinh doanh thông thường của Nhà nước. Hai mục tiêu này đang mâu thuẫn với nhau. Bởi, hoạt động mua, bán, xử lý nợ có tính đặc thù mang yếu tố rủi ro rất cao, về bản chất các khoản nợ thường có chất lượng xấu, rất dễ gây thua lỗ, rất khó để đảm bảo cùng một lúc vừa xử lý nhanh các khoản nợ, vừa đảm bảo lợi nhuận.
Trước các mục tiêu, yêu cầu đặt ra như vậy tác động không nhỏ đến hoạt động của DATC, buộc DATC luôn phải đề phòng các rủi ro trong mua bán nợ, chỉ thực hiện mua những khoản nợ nào chắc chắn có lãi, đảm bảo an toàn. Điều này đã phần nào tác động đến tiến độ và kết quả xử lý nợ, tiến trình cổ phần hóa, số lượng giao dịch cũng như quy mô nợ đã mua và kết quả xử lý của DATC còn thấp so với kỳ vọng và thực trạng của nền kinh tế.
Thiếu hướng dẫn chi tiết về vai trò của DATC trong việc tái cơ cấu hoạt động các DNNN
Mặc dù đã hoạt động từ năm 2003, tuy nhiên cho đến nay các cấp hữu quan vẫn chưa có những hướng dẫn chi tiết về quyền, thủ tục, biện pháp DATC được phép can thiệp, tái cơ cấu DNNN, đặc biệt là các DN mà Nhà nước nắm giữ quyền sở hữu (ví dụ quyền tham gia tổ chức, quản lý, bố trí xắp xếp nhân sự, tổ chức lại hoạt động kinh doanh…). Nếu không có hướng dẫn rõ ràng, DATC sẽ không thể tham gia vào quá trình tái cơ cấu DNNN một cách có hiệu quả.
Hạn chế trong quy định về sử dụng vốn đầu tư của DATC
Một trong các nguyên nhân làm hạn chế hoạt động mua, xử lý nợ của DATC thời gian qua là quy định về ưu tiên phân bổ vốn cho việc mua nợ tồn đọng của DN 100% vốn nhà nước. Cụ thể như tại Khoản 1.a Điều 8 của Thông tư 79/2011/TT-BTC yêu cầu DATC phải sử dụng tối thiểu 70% tổng nguồn vốn đầu tư để mua các khoản nợ và tài sản đối với khách nợ là DN do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ thực hiện sắp xếp, chuyển đổi sở hữu và lành mạnh hóa tình hình tài chính trong quá trình kinh doanh. Quy định này đang làm hạn chế khả năng của DATC trong tái cơ cấu DN đã mua nợ và trong một số hoạt động hoàn toàn nằm trong nhiệm vụ đã được giao hiện nay như tham gia các phương án xử lý nợ có tiềm năng khác. Ví dụ, (i) mua và xử lý nợ xấu của các đối tượng DNNN đã cổ phần hóa, Nhà nước vẫn giữ cổ phần chi phối; (ii) mua và xử lý nợ xấu của các DN khác...
Hạn chế của mô hình mua nợ xấu hiện nay
Hiện nay, DATC mua nợ xấu hoàn toàn bằng tiền mặt do đó dẫn đến một số bất cập như: DATC không thu lại được tiền ban đầu trả cho người bán, giá vốn xử lý nợ cao hơn (do phải tính cả tiền lãi suất trên số tiền bỏ ra trả cho người bán). Áp lực về việc tạo ra lợi nhuận đối với DATC làm cho quá trình lựa chọn phân tích, tính toán phương án trả nợ thương thảo, thỏa thuận với ngân hàng bị kéo dài. Ngoài ra, bên bán cũng khó ra quyết định vì sợ có thể giá bán thấp hơn giá trị thực tế của khoản nợ có thể thu hồi, ngân hàng phải ghi nhận lỗ ngay khi bán nợ thấp hơn giá trị sổ sách trong khi không được chia sẻ lợi nhuận mang lại trong trường hợp DATC xử lý thành công. Mặt khác, do phải dùng tiền mặt trả cho chủ nợ, nguồn lực tài chính của DATC cho việc tái cơ cấu tài chính và hoạt động của chủ nợ sẽ bị giảm xuống.
Hạn chế về quyền áp dụng các biện pháp xử lý nợ xấu
Trong quá trình hoạt động nghiệp vụ, thực tế DATC đã gặp phải một số hạn chế về quy định đối với việc thực hiện các biện pháp tái cơ cấu DN và thu hồi nợ. Điển hình như:
- Về cho vay/hoặc bảo lãnh vay: Một nguyên tắc cơ bản là để tái cơ cấu khách nợ cần có nguồn lực về tài chính và dòng tiền bổ sung là cần thiết để hỗ trợ các công ty đang tái cơ cấu. Công ty đang tái cơ cấu luôn gặp khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng ngân hàng vì họ có xếp hạng tín dụng thấp, không dễ huy động vốn từ nhà đầu tư khi chưa tái cơ cấu. Vì vậy, nỗ lực tái cơ cấu kinh doanh của các DN dễ thất bại do thiếu tiền để tháo gỡ khó khăn hiện tại, đầu tư bổ sung. Trong khi đó, các biện pháp xử lý nợ xấu áp dụng trong quá khứ chủ yếu mang tính hành chính, không liên quan đến tái cơ cấu công ty.
Hiện nay DATC không được phép cho các DN đã tái cơ cấu vay tiền/hoặc bảo lãnh vay tiền. Điều này làm hạn chế vai trò của DATC, các hoạt động của DATC cho các DN không tạo được giá trị tăng thêm vì vậy dẫn đến kết quả tái cơ cấu hạn chế vì DN không có đủ nguồn tài chính để thực hiện phương án tái cơ cấu hoạt động.
- Chiết khấu trả nợ: Trong một số trường hợp, để giải quyết dứt điểm khoản nợ tồn đọng, DN khách nợ mong muốn chủ nợ hỗ trợ giảm một phần nợ. Nếu đạt được thỏa thuận, khách nợ sẽ cố gắng bố trí nguồn vốn để trả nợ dứt điểm. Kỹ thuật này gọi là chiết khấu để khách nợ trả hết nợ (Discount Pay Off). Kỹ thuật xử lý nợ xấu này rất phổ biến đối các tổ chức mua bán nợ trên thế giới để đạt được kết quả hai bên cùng thắng (win-win), các bên cùng có lợi thông qua việc thể hiện thiện chí của mình. Trong nhiều trường hợp, các DN rất sợ việc không trả được nợ sẽ ảnh hưởng đến xếp hạng tín dụng của công ty và khó khăn trong việc vay nợ mới, triển khai các hoạt động đầu tư cần tài trợ mới của bên ngoài. Do vậy, khách nợ có thể cố gắng tự thu xếp tìm nguồn phù hợp khác nhau để giải quyết nợ tồn đọng nếu như có sự hỗ trợ từ bên cho vay. Tuy nhiên, Điều lệ tổ chức hoạt động của DATC chưa có điều khoản cho phép DATC áp dụng kỹ thuật thu hồi nợ này và đây là điểm làm hạn chế khả năng xử lý nợ của DATC.
Thiếu động lực và sức ép để xử lý nợ xấu
Mặc dù tình hình nợ xấu đã ở mức độ đáng báo động, các ngân hàng vẫn không chịu áp lực để chuyển giao hoặc bán nợ xấu cho DATC vì họ không được yêu cầu chính thức làm việc đó trong một hạn định về mức độ và thời gian. Các ngân hàng thương mại nhà nước và DNNN thiếu động lực để xử lý nợ xấu. Thông thường ngân hàng sẽ không muốn bán nợ xấu có tài sản bảo đảm và nợ có khả năng thu hồi. Đối với các khoản nợ xấu mà họ thực sự muốn loại bỏ, các ngân hàng cũng sẽ không muốn bán ở một mức giá thấp hơn giá trị sổ sách vì như vậy có thể làm cho ngân hàng phải ghi nhận khoản lỗ từ khoản nợ xấu này ngay lập tức. Trở ngại này cũng phần nào ảnh hưởng đến hoạt động của DATC.
Hạn chế trong tiếp cận thông tin
Về nguyên tắc, DATC được phép truy cập và sử dụng thông tin có liên quan được lưu giữ ở các cơ quan nhà nước, chẳng hạn như các cơ quan thuế, bộ phận tài chính của các DN, cơ quan đăng ký kinh doanh và các trung tâm giao dịch chứng khoán, cũng như thông tin có liên quan được lưu giữ ở các ngân hàng thương mại, các bên cho vay, chủ sở hữu tài sản và các bên đi vay. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận với các thông tin cần thiết và sự hợp tác trong việc cung cấp thông tin của các bên cho vay (các ngân hàng thương mại) và các DNNN vay nợ vẫn là một trở ngại. Trong thực tế, hầu hết các cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam đều thiếu thông tin tài chính từ các DNNN được cập nhật thường xuyên. DATC bởi vậy cũng không thể có cơ chế hiệu quả để buộc các ngân hàng và DN cung cấp đầy đủ thông tin và hợp tác với DATC nhằm đưa ra các giải pháp và càng không có quyền lực đặc biệt nào để tiến hành điều tra về nợ xấu.
Thiếu khuyến khích đối với các nhà đầu tư chiến lược
Do bị hạn chế trong việc tiếp cận để xử lý nợ xấu nên DATC không thể có cơ chế, nguồn lực tài chính và con người để tái cơ cấu tài chính của DNNN vay nợ. Để hoạt động tái cơ cấu DN hiệu quả, vai trò của nhà đầu tư chiến lược là rất quan trọng và cần phải tạo ra sự hấp dẫn để thu hút họ tham gia vào các giao dịch tái cơ cấu. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn thiếu cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư chiến lược tham gia vào hoạt động này. Theo quy định hiện hành, tại thời điểm cổ phần hóa, các nhà đầu tư chiến lược mua cổ phần ở mức giá trúng đấu giá bình quân. Điều này không thể khuyến khích các nhà đầu tư chiến lược vì họ có thể phải bỏ ra nguồn lực đáng kể để nghiên cứu và lập một kế hoạch khôi phục khả dĩ cho các DNNN.
Để tích cực tham gia vào quá trình tái cơ cấu, nhà đầu tư chiến lược thường đòi hỏi được nắm lượng cổ phần lớn. Trong các quy định hiện hành, các nhà đầu tư nước ngoài không được phép mua hơn 30% cổ phần của các DN Việt Nam chưa niêm yết và 49% cổ phần của các công ty đã niêm yết. Điều này sẽ làm cho các nhà đầu tư chiến lược tiềm năng né tránh tham gia vào việc tái cơ cấu các công ty vay nợ vì họ không thể chắc chắn liệu họ có thể kiểm soát được việc tái cơ cấu hay không.
Giải pháp tăng cường vai trò và hoạt động của DATC
Để khắc phục một số khó khăn tồn tại, phát huy vai trò, vị thế của DATC trong hoạt động xử lý nợ xấu, tái cơ cấu DN cần có những giải pháp hữu ích, cụ thể trong bối cảnh hiện nay.
Thứ nhất, thống nhất định hướng, cách tiếp cận và xây dựng chiến lược cho DATC phù hợp với tình hình kinh tế và chủ trương của Chính phủ.
Thứ hai, phân công rõ ràng vai trò và giao cho DATC có những quyền hạn nhất định trong việc tái cơ cấu DNNN.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung các quy định đang hạn chế khả năng thực hiện nhiệm vụ của DATC như: Cho phép, tạo điều kiện cho DATC áp dụng mô hình mua nợ mới; Tăng cường quy mô hoạt động, nguồn lực tài chính cho DATC, để DATC tham gia sâu hơn vào chương trình cải cách DNNN và xử lý nhiều hơn nợ xấu trong nền kinh tế; Cần xem xét lại về thuế liên quan hoạt động của DATC trong việc thu mua và giải quyết nợ xấu. Việc xử lý thuế cần được thực hiện như một động cơ để các bên cho vay/ngân hàng chuyển giao nợ xấu cho DATC theo mô hình thu mua nợ xấu mới để tạo điều kiện thuận lợi cho DATC giải quyết nợ xấu một cách hiệu quả; Thay đổi quy định về tỷ lệ tối thiểu vốn sử dụng cho mua nợ của DN 100% vốn Nhà nước nhằm tăng thêm quyền tự chủ cho DATC trong sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, tăng quyền chủ động cho DATC trong việc giải quyết nợ xấu, nhằm đa dạng các hình thức xử lý nợ. DATC cần có quyền chủ động việc thực hiện các biện pháp giải quyết, xử lý nợ xấu, được trao quyền hạn và tự do trong việc áp dụng các cách tiếp cận giải quyết thích hợp. Khả năng thực hiện biện pháp chiết khấu nợ như là một trong các phương pháp giải quyết hoặc thương lượng việc gia hạn các hình thức tái cơ cấu khác phải thuộc quyền quyết định của DATC.
Thứ năm, Ngân hàng Nhà nước cần đưa ra một loạt các biện pháp mạnh về xử lý nợ xấu. Trong đó, yêu cầu tất cả các ngân hàng và tổ chức tín dụng duy trì nợ xấu trong mức độ an toàn. Nếu nợ xấu vượt quá mức độ cho phép, phải bán/chuyển giao nợ xấu cho DATC hoặc bị hạn chế một số hoạt động cho đến khi xử lý được nợ xấu, giảm tỷ lệ nợ xấu xuống mức chấp nhận được để đảm bảo an toàn cả hệ thống tài chính ngân hàng. Việc này sẽ làm cho các ngân hàng sẵn sàng làm việc với DATC.
Thứ sáu, có chính sách ưu đãi nhà đầu tư chiến lược, đặc biệt đối với trường hợp tái cơ cấu, chuyển đổi DNNN không còn vốn nhà nước thành công ty cổ phần. Để thu hút các nhà đầu tư chiến lược tham gia vào việc tái cơ cấu nợ nhằm giải quyết nợ xấu với DATC, Chính phủ sẽ đưa ra một số ưu đãi, bao gồm: Bán cổ phần DNNN cho các nhà đầu tư chiến lược với mức giá thỏa thuận, thay vì mức giá trúng thầu trung bình; cụ thể hóa quy định liên quan đến mua cổ phần của cổ đông chiến lược nước ngoài trong các trường hợp để xử lý nợ xấu cùng với DATC; chỉ nên hạn chế đối với một số ngành cụ thể, các công ty đại chúng và các công ty lớn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và các ngành công nghiệp.
Thứ bảy, cải tiến cơ cấu tổ chức và nâng cao năng lực cho DATC. Các DNNN hoạt động kém ở Việt Nam đang cần phải tái cơ cấu hoạt động. Cổ phần hóa mà không tái cơ cấu hoạt động sẽ không thể giúp các DNNN hoạt động hiệu quả hơn. Bằng việc tham gia bộ máy quản lý của một số DNNN, bao gồm cả các tổng công ty, DATC sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận với các thông tin và dữ liệu đáng tin cậy của DNNN để hiểu rõ hơn tình hình kinh doanh của họ. Đây là một lợi thế của DATC để mở rộng vai trò tham gia vào quá trình cải cách DNNN.
Để DATC thực hiện vai trò một cách hiệu quả, một số điều kiện cần phải được đáp ứng như sau: Nợ xấu ở Việt Nam hiện nay ở mức cao, nhu cầu xử lý nợ là rất lớn, gắn với xử lý nợ là việc tái cơ cấu DN. DATC có vị trí rất phù hợp để tham gia nhiều hơn vào hoạt động xử lý nợ ở Việt Nam và qua đó thực hiện tái cơ cấu DN. Tuy nhiên, vai trò và hoạt động của DATC phụ thuộc vào quan điểm, định hướng của Chính phủ sử dụng DATC như thế nào trong chiến lược chung về xử lý nợ xấu và tái cơ cấu DNNN để từ đó xây dựng các chính sách phù hợp cho hoạt động của DATC.
Xử lý nợ, tái cơ cấu doanh nghiệp và vai trò của Công ty Mua bán nợ Việt Nam
(Tài chính) Theo Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, đến năm 2015 các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải xử lý dứt điểm nợ xấu. Đề án cũng đề cao vai trò Công ty Mua bán nợ Việt Nam trong xử lý nợ xấu của doanh nghiệp và các ngân hàng… Đây là cơ hội lớn để nâng cao vị thế nhưng cũng là nhiệm vụ khá nặng nề đặt ra đối với Công ty Mua bán nợ Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
Xem thêm