Ba mối lo trong quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc
(Tài chính) Xem xét trên ba lĩnh vực thương mại, đầu tư và tổng thầu EPC, kinh tế Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng như thế nào nếu xảy ra xung đột với Trung Quốc?
Sản xuất có bị tê liệt?
Việt Nam chưa cải thiện được nhiều về xuất khẩu sang Trung Quốc nhưng lại gia tăng mạnh về nhập khẩu từ quốc gia này. Nói cách khác, Việt Nam đang phụ thuộc ngày càng nhiều vào nhập khẩu từ Trung Quốc. Số liệu thống kê cho thấy từ năm 2000 – 2013, tỉ trọng xuất khẩu sang Trung Quốc chỉ dao động trong khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, nhưng tỉ trọng nhập khẩu đã tăng từ 10% lên mức 28% trong cùng thời gian. Năm 2013, tỉ trọng nhập khẩu và xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc lần lượt là 10,2% và 27,6%.
Con số 28% này tác động thực sự thế nào đến kinh tế Việt Nam?
Tỷ trọng xuất khẩu, nhập khẩu với Trung Quốc trong tổng xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam
Nguồn: Tính toán theo số liệu của Tổng cục Hải quan & IMF các năm
Xét về cơ cấu nhập khẩu, theo phân loại ngành kinh tế lớn (BEC), có thể thấy đa phần hàng hoá nhập từ Trung Quốc là hàng phụ trợ công nghiệp và tư liệu sản xuất – tức là hàng hoá trung gian phục vụ sản xuất – và nhập khẩu hai nhóm này từ Trung Quốc tăng cao hơn nhập khẩu từ thế giới. Với cơ cấu hàng tiêu dùng chiếm tỉ trọng khoảng 20%, hàng tư liệu sản xuất chiếm khoảng 35%, hàng công nghiệp phụ trợ và máy móc phụ tùng vận tải 35%, có thể thấy khoảng 70% hàng hoá Trung Quốc được nhập vào Việt Nam để phục vụ hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt Nam.
Nếu để ý có thể thấy ngoài Trung Quốc, Việt Nam còn nhập siêu với Hàn Quốc và ASEAN với giá trị nhập siêu tương đối lớn – năm 2013, nhập siêu từ hai thị trường này là khoảng 14 tỷ USD và 3 tỷ USD. Điều đó cho thấy, ngoài Trung Quốc, các doanh nghiệp FDI Việt Nam cũng nhập khẩu nhiều hàng phụ trợ, nguyên vật liệu đầu vào từ các nơi khác. Do đó, có thể giả thiết rằng phần nhập khẩu từ Trung Quốc của doanh nghiệp FDI đã được sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu và đem lại thặng dư thương mại cho Việt Nam. Phần còn lại trong hàng nhập khẩu về máy móc thiết bị, công nghệ được doanh nghiệp Việt Nam hấp thụ và chuyển thành công nghệ của mình. Do đó, việc lo ngại rằng nếu xảy ra xung đột thương mại, sản xuất Việt Nam có thể bị tê liệt là nhận định cần thêm bằng chứng, bởi trong chuỗi sản xuất toàn cầu hiện nay các công ty xuyên quốc gia luôn phải tìm cách chủ động về nguồn tư liệu sản xuất đầu vào.
Điều thực sự cần chú ý đối với sản xuất của Việt Nam là nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí cả các doanh nghiệp lớn, đang sử dụng công nghệ của Trung Quốc để sản xuất. Công nghệ Trung Quốc rẻ, sẵn có, dễ sử dụng. Nhưng về lâu dài, việc này không chỉ khiến Việt Nam luôn ở nấc thang thấp hơn Trung Quốc về mặt công nghệ sản xuất mà còn làm suy giảm động lực nghiên cứu phát triển (R&D) của doanh nghiệp Việt Nam.
Khi Trung Quốc đón đầu TPP
Trong số các điểm đến đầu tư, châu Á chiếm hơn 60% tổng vốn FDI của Trung Quốc, nhưng ASEAN chỉ chiếm 7-9% trong tổng số này, còn lại 40-45% vốn vào châu Á của Trung Quốc là đầu tư sang Hồng Kông.
Đáng chú ý nguồn vốn FDI Trung Quốc chủ yếu mang đặc điểm của giai đoạn đầu – đi ra bên ngoài mua tài nguyên và mua kỹ thuật: đầu tư vốn nhưng không chuyển nhà xưởng/nhà máy ra nước ngoài do lao động trong nước – đặc biệt lao động tại khu vực miền Trung, miền Tây còn nhiều; đa phần là doanh nghiệp thương mại có mục tiêu thu mua kỹ thuật và tài nguyên; hầu như chỉ sử dụng lao động Trung Quốc.
Số liệu tính toán của chúng tôi cho thấy 60% số dự án và 70% tổng vốn FDI của Trung Quốc nhằm tìm kiếm các tài sản chiến lược và chiếm lĩnh tài nguyên.
Mục đích đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp lớn Trung Quốc 2000 - 2011
Nguồn: Tính toán theo số liệu của MOFCOM và SAFE các năm
Theo số liệu của Bộ Công thương, tính từ 1/1/2013 đến hết 15/12/2013, số dự án đầu tư Trung Quốc vào Việt Nam được cấp mới là 89 dự án, vốn đăng ký cấp mới là 2,276 tỷ USD. Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến hết ngày 15/12/2012, Trung Quốc đã có 891 dự án đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký đạt trên 4,68 tỉ USD, đứng thứ 14 trên 96 quốc gia, vùng lãnh thổ. Trong đó, các dự án tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và khai thác tài nguyên thiên nhiên trong nước (chiếm trên 70% tổng dự án và xấp xỉ 60% tổng vốn đầu tư).
Tuy nhiên, cùng với việc Việt Nam đẩy mạnh đàm phán gia nhập TPP, đã xuất hiện hiện tượng doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư mạnh vào việc xây dựng nhà máy để sản xuất nguyên vật liệu tại Việt Nam nhằm tận dụng cơ hội từ TPP. Các nhà máy 100% vốn Trung Quốc tại Nam Định, Hà Tĩnh... đều xuất hiện trong bối cảnh này.
Điều đáng chú ý là với những ngành như dệt may, da giày, việc đầu tư nhà xưởng của doanh nghiệp FDI sẽ đặt Việt Nam trước thách thức quản lý việc xử lý nước thải công nghiệp bởi những ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp này (như nhuộm, thuộc da...) đều là những ngành có mức độ ô nhiễm nặng nề. Nếu doanh nghiệp Việt Nam không tăng cường được khả năng đáp ứng các yêu cầu về xuất xứ hàng hóa, đồng thời không quản lý được hoạt động của doanh nghiệp FDI, có thể lợi thế từ việc gia nhập TPP sẽ trở thành một cái bẫy tự do hóa thương mại mới đối với Việt Nam.
Mối nguy tổng thầu EPC
Trung Quốc hiện là nhà thầu lớn nhất của Việt Nam. Các doanh nghiệp Trung Quốc đã trúng thầu EPC (tư vấn, thiết kế - cung cấp thiết bị - xây lắp, vận hành; hay nói cách khác là thực hiện dự án theo phương thức chìa khoá trao tay) phần lớn các công trình năng lượng, khai khoáng, luyện kim ở Việt Nam.
Theo thống kê được công bố vào đầu tháng 4/2014 của viện Nghiên cứu cơ khí thuộc bộ Công thương, Việt Nam hiện có 20 dự án nhiệt điện thì có 15 công trình được phía Trung Quốc làm tổng thầu EPC. Trong ngành xi-măng, 24 dự án lớn do Trung Quốc làm tổng thầu. Cả nước có hai dự án công nghiệp nhôm và bauxite và ba nhà máy tuyển than thì tất cả đều do nhà thầu Trung Quốc đảm trách.
Tuy chưa có số liệu đầy đủ nhưng một báo cáo trước đây do uỷ ban Tài chính và ngân sách của Quốc hội công bố cho thấy, tính đến năm 2010, có đến 90% các dự án tổng thầu EPC tại Việt Nam rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc, trong đó có tới 30 dự án trọng điểm quốc gia. Bên cạnh lo lắng về chất lượng, tiến độ mà thời gian gần đây đã bộc lộ ở một số công trình, việc các nhà thầu Trung Quốc thường sử dụng nhiều lao động Trung Quốc còn có thể gây nên các vấn đề về xã hội.
Mối nguy lớn nhất từ thực tế EPC hiện nay là mối nguy đối với an ninh năng lượng. Nếu chú ý có thể nhận thấy nhà thầu Trung Quốc nắm các dự án quan trọng trong Tổng sơ đồ điện 6 và Tổng sơ đồ điện 7 của Việt Nam, và hầu hết trong số này đến nay đều chậm tiến độ hoặc bị đội vốn lên rất cao. Nếu có trục trặc gì lớn, như việc nhà thầu Trung Quốc ngừng thi công, thì Việt Nam sẽ thiếu điện. Doanh nghiệp có thể mở rộng nguồn cung đầu vào từ nước khác với giá cao hơn nhưng không thể hoạt động khi thiếu điện. Đời sống hàng ngày của người dân cũng đang bị lệ thuộc vào điện.
Chủ đầu tư từ phía Việt Nam như EVN, chỉ thuần tuý thuê người ta làm toàn bộ rồi mình nhận chuyển giao chứ không thể tổ chức thực hiện được khâu nào như thiết kế hay cơ khí. Điều này dẫn đến việc nhà thầu Trung Quốc mang vào Việt Nam đủ thứ từ A đến Z, kể cả lao động, gây nên những mối nguy khác về an ninh, xã hội. Trong khi, như chuyện lao động, dù họ thắng thầu, đáng lẽ ta có thể thương lượng, ràng buộc trong hợp đồng để không làm mất cơ hội việc làm của người Việt mình. Hiện ta đã có những bước điều chỉnh. Theo luật Đấu thầu mới, yêu cầu về chất lượng kỹ thuật đã được đặt lên hàng đầu, cách tính giá cũng không còn gói trong giá xây dựng ban đầu mà tính cả cho cả vòng đời của dự án, bao gồm cả khâu vận hành, bảo trì, để dễ so sánh đúng thực chất chuyện rẻ, mắc. Dù muốn hay không thì chúng ta cũng phải phát triển năng lực của mình, nếu không sẽ đơn giản là chuyển từ lệ thuộc Trung Quốc sang lệ thuộc nhà thầu đa quốc gia. Nên chia dự án thành những gói thầu nhỏ để nhà thầu Việt Nam có thể tham gia. Đàm phán TPP nên theo hướng dự án phải lớn cỡ bao nhiêu thì mới phải tổ chức đấu thầu quốc tế, còn lại thì giữ công ăn việc làm cho lao động Việt Nam.
Phạm Chi Lan, nguyên Phó Chủ tịch phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI)