Báo cáo dự báo kinh tế Việt Nam năm 2014

Theo Trung tâm nghiên cứu BIDV

Năm 2014, Quốc hội đặt ra mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế năm 2014 là tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát (~7%); tăng trưởng hợp lý (5,8%) và nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh trạnh của nền kinh tế trên cơ sở đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế; bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân

Tại Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2014 được Quốc hội XIII khóa VI thông qua ngày 11/11/2013, Quốc hội vẫn đặt ra mục tiêu tiếp tục điều hành nền kinh tế theo hướng ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược và đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu ngành, lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm đến năm 2015 tạo được chuyển biến mạnh mẽ, cơ bản, có hiệu quả rõ rệt. 

Báo cáo dự báo kinh tế Việt Nam năm 2014 - Ảnh 1

Để đạt mục tiêu tăng trưởng 5,8% trong năm 2014, cùng với quyết tâm đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, thực hiện 3 đột phá chiến lược, Chính phủ sẽ vẫn cần phải duy trì kích thích đầu tư xã hội. Sức cầu (bao gồm cả cầu đầu tư và cầu tiêu dùng) theo đó dự kiến có cải thiện hơn năm 2013.

Tuy nhiên, sự cải thiện chỉ ở mức độ nhẹ do Chính phủ dự kiến sẽ không thực hiện biện pháp kích cầu mạnh mà tập trung vào nhiệm vụ tái cơ cấu. Lạm phát năm 2014 sẽ vẫn được kiểm soát ở mức tương tự năm 2013 để duy trì sự ổn định vĩ mô. Triển vọng xuất khẩu năm 2014 của Việt Nam vẫn rất khả quan, mục tiêu tăng trưởng 10% là khả thi. Theo đó, nhìn chung trong bối cảnh năm 2014, mục tiêu tăng trưởng GDP ở mức 5,8% là một mục tiêu đầy khó khăn và thách thức, đòi hỏi Chính phủ cùng các ban ngành phải có các biện pháp sâu sát, đồng bộ ngay từ đầu năm.

DỰ BÁO KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2014

Dự báo tình hình kinh tế vĩ mô trong nước năm 2014

Về tăng trưởng GDP: Theo quan điểm của Trung tâm nghiên cứu triển vọng tăng trưởng của năm 2014 có phần khả quan hơn năm 2013 song nền kinh tế chưa thể lấy lại được đà tăng trưởng nhanh và tăng trưởng GDP dự kiến chỉ cao hơn khoảng 0,3 điểm % so với năm 2013 và đạt khoảng 5,5-5,6%. Nhận định của chúng tôi dựa trên 4 điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp tiếp tục phục hồi song với tốc độ chậm và còn nhiều khó khăn: số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động trong 10 tháng 2013 vẫn tăng 3,7% so với cùng kỳ năm 2012, giá trị hàng tồn kho vẫn chiếm tới 74% giá trị sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo. Chỉ số IIP 11 tháng chỉ tăng 5,6%, tuy cao hơn cùng kỳ năm 2012 song với cơ cấu trên 38% trong GDP, mức tăng này của khu vực công nghiệp chưa đủ bù với mức giảm của 2 khu vực còn lại của nền kinh tế là nông lâm nghiệp, thủy sản (chỉ tăng 2,38%, thấp nhất trong 4 năm gần đây) và dịch vụ (tăng 6,25% giảm nhẹ so với mức 6,42% năm 2012) để kéo mức tăng của GDP lên trên 5,6%;

Thứ hai, sức cầu của nền kinh tế yếu và hồi phục chậm, thể hiện rõ cả ở phía cầu tiêu dùng và cầu đầu tư. Đối với cầu tiêu dùng: số liệu thống kê cho thấy, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tuy có tăng song vẫn ở mức thấp nhất so với cùng kỳ 4 năm gần đây (12,6% yoy). Tiêu dùng nội địa nền kinh tế so với GDP đạt 78,2% năm 2012 và xấp xỉ 80% GDP 9 tháng 2013, sức cầu trong nước còn yếu sẽ làm hạn chế mức tăng trưởng kinh tế 2014.

Đối với cầu đầu tư: trong khi nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI, FII) dự kiến ổn định và có chiều hướng gia tăng, nguồn vốn đầu tư từ khu vực Nhà nước và ngoài Nhà nước (chiếm tỷ trọng 76,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội) có chiều hướng giảm: vốn đầu tư từ khu vực Nhà nước và ngoài Nhà nước thực hiện 9 tháng 2013 chỉ tăng lần lượt là 4,2% và 8,5%, thấp hơn mức tăng của năm 2012 (9,6% và 8,1%). Tổng mức đầu tư toàn xã hội năm 2014 cũng được định hướng ở mức ~30% GDP, tương tự mức năm 2013 và tiếp tục ở mức thấp nhất từ năm 2000 tới nay. 

Thứ ba, ưu tiên chính sách điều hành năm 2014 tiếp tục đặt trọng tâm vào ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, duy trì tăng trưởng hợp lý và tái cơ cấu nền kinh tế. Việc đặt ưu tiên chính sách điều hành vào tăng trưởng ổn định thay vì theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cao cũng là xu hướng chung của hầu hết các nền kinh tế trên thế giới trong bối cảnh hiện nay.

Tái cơ cấu kinh tế là quá trình cắt gọt, bố trí lại các nguồn lực do vậy sẽ tạo ra một số xáo trộn có thể ảnh hưởng tới tăng trưởng trong ngắn hạn. Một số nguồn lực sẽ phải được sử dụng cho việc khắc phục, hạn chế các xáo trộn này nhằm đảm bảo an sinh xã hội thay vì phục vụ cho tăng trưởng (ví dụ tăng chi trợ cấp cho đào tạo lại nghề, ghi nhận lỗ khi thoái vốn đầu tư, tăng chi hành chính quản lý tái cơ cấu…).

Thứ tư, tổng chi cân đối ngân sách Nhà nước dự toán năm 2014 chỉ tăng ở mức 2,9% so (thấp hơn nhiều so với mức tăng 8,3% năm 2013 và 24,5% năm 2012), đây là hệ lụy tất yếu trong bối cảnh các nguồn thu đều giảm sút. Chi ngân sách giảm sẽ là yếu tố giảm hỗ trợ tăng trưởng của năm 2014.

Báo cáo dự báo kinh tế Việt Nam năm 2014 - Ảnh 2

Về lạm phát: Dự báo năm 2014, tính đến khả năng hưởng lợi bởi các yếu tố đầu vào thế giới như giá dầu sẽ mức cân bằng dài hạn (khoảng 90 USD/thùng, cung mở rộng trong khi cầu hạn chế), giá lương thực tiếp tục xu hướng giảm trong điều kiện thời tiết thuận lợi, giá năng lượng giảm 0,8-1%, giá hàng hóa phi năng lượng giảm 0,3%-0,9% (dự báo của WB), mặt bằng giá cả trong nước năm 2014 sẽ chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố sau: (1) Sức ép đối với mặt bằng giá cả do tăng tổng phương tiện thanh toán và sự cải thiện của tổng cầu; (2) Khả năng điều chỉnh các mặt hàng do nhà nước quản lý như điện, than, dịch vụ công theo lộ trình đưa các giá mặt hàng này theo thị trường.

Tuy nhiên, theo định hướng chính sách ưu tiên mục tiêu ổn định vĩ mô giai đoạn 2013-2015, Trung tâm nghiên cứu cho rằng, Ngân hàng Nhà nước sẽ có những biện pháp chủ động, linh hoạt trong điều tiết cung tiền, tỷ giá, lãi suất, cùng với đó, các chương trình bình ổn giá cả, cân bằng cung cầu hàng hóa sẽ là những yếu tố góp phần giảm kỳ vọng lạm phát. Trên cơ sở CPI năm 2013 được kiềm chế tốt ở mức 6,0-6,3%, Trung tâm nghiên cứu cho rằng kỳ vọng lạm phát năm 2014 cũng sẽ dao động ở mức ~ 7,0%, theo mục tiêu của Quốc hội và Chính phủ, đây là mức hợp lý, cân đối với mục tiêu tăng trưởng, hướng đến mục tiêu lạm phát tăng khoảng 5% - 7% năm 2015 theo Nghị quyết của Quốc hội.

Về xuất nhập khẩu: Triển vọng xuất khẩu năm 2014 vẫn rất khả quan do sự tác động của 4 yếu tố sau: (i) Các chính sách hỗ trợ, khuyến khích xuất khẩu ngày càng được hoàn thiện; (ii) Phần lớn các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn thuộc hàng tiêu dùng, nguyên phụ liệu thiết yếu do vậy ít thuộc diện cắt giảm tại các thị trường chủ chốt (Mỹ, EU...) khi người tiêu dùng tại các thị trường này cắt giảm chi tiêu; (iii) 2 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là điện tử - máy tính - linh kiện và dệt may - dày dép (chiếm tổng tỷ trọng gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu) vẫn có triển vọng tăng trưởng rất khả quan: hầu hết các doanh nghiệp dệt may, dày dép đã nhận được đơn hàng quý I và quý II/2014; (iv) Nhiều cơ hội mới mở ra cho hoạt động xuất khẩu Việt Nam với Hiệp định hợp tác TTP, Cộng đồng kinh tế Asean AEC và hiệp định song phương FTA với nhiều nước trên thế giới. Trung tâm nghiên cứu dự kiến kim ngạch xuất khẩu năm 2014 sẽ tăng trưởng 13-14% và đạt mức  148-150 tỷ USD.

Về nhập khẩu, dự kiến nhập khẩu trong năm 2014 chưa thể lấy lại đà tăng trưởng như năm 2010-2011, kim ngạch nhập khẩu sẽ trong khoảng 150-153 tỷ USD và cán cân thương mại sẽ chỉ thâm hụt nhẹ trong khoảng 2-3 tỷ USD (tương đương ~2% giá trị xuất khẩu, thấp hơn mục tiêu 6% giá trị xuất khẩu Quốc Hội giao). 

Về thu hút FDI, ODA: Trong tháng 9/2013, Chính phủ đã ra Nghị quyết về tăng cường thu hút và cải thiện chất lượng dòng vốn FDI, thông qua việc thay đổi một loạt các quy định, điều này sẽ giúp môi trường đầu tư của Việt Nam tiếp tục được cải thiện, niềm tin của nhà đầu tư tăng trở lại dự báo năm 2014, FDI đăng ký sẽ tăng với mức trên 18 tỷ USD và vốn giải ngân đạt 10,5-11 tỷ USD. Về ODA, Với những cam kết của EU về nâng cao mức ODA cho Việt Nam trong giai đoạn 2014-2020 và Thụy Sỹ tăng 50% vốn ODA của Việt nam giai đoạn 2013-2016, dự báo từ 2014 lượng vốn ODA vào Việt nam sẽ tăng ở mức khoảng 10-15% so với năm 2013.

Cùng với đó, ước tính lượng kiều hối sẽ đạt khoảng 11 tỷ USD 2013, tăng khoảng 10% năm 2014 đồng thời có sự chuyển dịch tích cực vào các hoạt động sản xuất kinh doanh thay vì đổ vào thị trường bất động sản. Với các nguồn FDI, ODA, kiều hối tăng trưởng tốt, đóng góp nguồn ngoại tệ lớn cho tăng trưởng kinh tế, góp phần đưa cán cân tổng thể thặng dư đồng thời bổ sung nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia.

Về thị trường chứng khoán: Mặc dù xu hướng rút vốn khỏi các thị trường mới nổi chưa sớm dừng lại khi các khó khăn của thế giới, đặc biệt là vấn đề Mỹ, Châu Âu và suy giảm tăng trưởng của Trung Quốc còn diễn biến phức tạp, tuy nhiên đà khởi sắc của thị trường chứng khoán Việt nam tiếp tục được kỳ vọng nhờ: (i) Sự phục hồi sản xuất, chuyển biến sức cầu, tăng PMI trong bối cảnh ổn định lạm phát, tỷ giá, lãi suất, rủi ro giảm, CDS giảm...góp phần tăng niềm tin của nhà đầu tư; (ii) Tiến triển tích cực của đàm phán TPP và việc xem xét tăng tỷ lệ sở hữu cho khối ngoại, tiến độ xử lý nợ xấu được VAMC thúc đẩy, kết quả kinh doanh quý IV cải thiện là động lực kích thích thanh khoản tăng dần; (iii) Mức P/E hấp dẫn so với khu vực góp phần giữ chân dòng vốn cũng như khích lệ dòng vốn nội. Nhờ những động lực đó, thị trường chứng khoán Việt Nam có khả năng duy trì vị trí là một trong thị trường tốt nhất khu vực Châu Á trong năm 2014 với dự báo VNIndex có thể đạt 510-530 điểm. 

Báo cáo dự báo kinh tế Việt Nam năm 2014 - Ảnh 3
Dự báo điều hành chính sách tiền tệ năm 2014

Để đạt mục tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 Quốc hội đặt ra, dự báo năm 2014 Ngân hàng Nhà nước sẽ  điều hành chính sách tiền tệ theo định hướng linh hoạt, thận trọng, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác để đạt mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và tăng trưởng hợp lý. Cụ thể:

Về kênh tín dụng: Ngân hàng Nhà nước tiếp tục xác định đây là kênh chủ đạo của chính sách tiền tệ, tiếp tục các biện pháp tháo gỡ “nút thắt” tăng trưởng tín dụng như tập trung xử lý nợ xấu, hỗ trợ các lĩnh vực ưu tiên. Dự báo Ngân hàng Nhà nước có thể đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng từ 13-15% trong năm 2014.

Về lãi suất: sẽ giữ lãi suất ở mức thấp phù hợp với mục tiêu lạm phát để hỗ trợ tăng trưởng.

Về tỷ giá và điều hành thị trường vàng: Trung tâm nghiên cứu duy trì dự báo triển vọng ổn định của tỷ giá trong biên độ cho phép của Ngân hàng Nhà nước với khả năng tăng trưởng nguồn cung ngoại tệ từ FDI, ODA, kiều hối trong khi sức cầu nội địa và hoạt động nhập khẩu sẽ không thay đổi nhiều trong thời gian còn lại của năm. Cùng với đó, nền tảng vĩ mô ổn định, dự trữ ngoại hối quốc gia vững mạnh (dự kiến đạt hơn 30 tỷ USD, đảm bảo 12,5 tuần nhập khẩu cuối năm 2013 và khoảng 14 tuần nhập khẩu năm 2014) sẽ là những cơ sở quan trọng cho sự ổn định vững chắc của tỷ giá.

Dự báo, với mức điều chỉnh 2% - 4% và biên độ dao động 1% được giữ đến cuối năm 2014, tỷ giá USD/VND sẽ khoảng 21.400-22.000 hướng đến hỗ trợ xuất khẩu và cải thiện cán cân thương mại, cán cân tổng thể. Cùng với đó, sự linh hoạt hơn nữa của chính sách tỷ giá, giảm dần can thiệp hành chính, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền sẽ giúp bình ổn tâm lý của các chủ thể tham gia thị trường ngoại hối. Về thị trường vàng, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục kiên định chính sách đã đề ra; tăng cường truyền thông và tính đến giải pháp lâu dài như thành lập Sàn giao dịch vàng quốc gia.

Về các giải pháp đẩy mạnh triển khai tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng theo đề án 254: theo đánh giá của các tổ chức quốc tế (IMF, WB), triển vọng ổn định và tăng trưởng kinh tế thời gian tới phụ thuộc vào kết quả tái cơ cấu nền kinh tế mà trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng. Do vậy dự báo sang 2014, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục triển khai mạnh nội dung theo lộ trình trong đề án tái cấu trúc, trong đó: (i) đẩy mạnh mua bán xử lý nợ xấu thông qua hoạt động của công ty VAMC; (ii) đưa vào triển khai một số văn bản về quản trị rủi ro và đảm bảo an toàn trong hoạt động như Thông tư 02 về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, Thông tư thay thế Thông tư 13 về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động...; (iii) tăng cường năng lực tài chính (năng lực về vốn) của các tổ chức tín dụng hướng tới đảm bảo thực hiện hệ số CAR theo Basell II.

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH KINH TẾ NĂM 2014

Năm 2014, để đạt được mục tiêu Quốc Hội đề ra, Trung tâm nghiên cứu đề xuất Chính phủ cần thực hiện quyết liệt nhiệm vụ trọng tâm là giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế, thực hiện 3 đột phá chiến lược. Một số giải pháp điều hành kinh tế năm 2014 cần tập trung triển khai như sau:

Về tái cơ cấu 3 lĩnh vực ưu tiên

Về tái cơ cấu đầu tư công, Chính phủ cần tích cực triển khai 5 giải pháp của tái cơ cầu đầu tư công theo Chỉ thị 1792/CT-TTg: (1) Nhất quán xây dựng và thực hiện phân bổ đầu tư công theo kế hoạch trung hạn 3-5 năm, bám sát các theo các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, phân khai theo từng năm, đảm bảo sự bền vững của đầu tư ngân sách; (2) Chuyển bớt vốn đầu tư từ khu vực hiệu quả thấp sang các khu vực khác như giáo dục, y tế, nông nghiệp, hỗ trợ các đối tượng khó khăn, thúc đẩy tổng cầu; (3) Giảm dần chức năng “nhà nước kinh doanh”, tăng cường chức năng “nhà nước phúc lợi”, dành nhiều ngân sách cho đầu tư giáo dục, xã hội; (4) Đối với lĩnh vực kinh tế: (i) Xã hội hóa việc đầu tư kinh doanh, tăng cường các mô hình hợp tác công tư (BT, BOT, PPP); (ii) Tập trung vào một số ít trọng điểm, có tính đột phá, tính lan tỏa và nhanh chóng đưa vào sử dụng.     

Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ cần xem xét ban hành quy định riêng hướng dẫn về thoái vốn đầu tư ngoài ngành của doanh nghiệp nhà nước trong đó làm rõ về phương thức thoái vốn, điều kiện và giới hạn với người mua, thẩm quyền và quy trình ra quyết định thoái vốn, cơ chế định giá, …đảm bảo phù hợp với nguyên tắc thị trường làm cơ sở để các doanh nghiệp chủ động thực hiện kế hoạch thoái vốn. Có thể xem xét thoái vốn đầu tư ngoài ngành của các Tập đoàn và Tổng công ty qua biện pháp chuyển giao theo sổ sách toàn bộ vốn đầu tư về cho Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) để công ty này xây dựng kế hoạch thoái vốn tiếp hoặc tiếp tục kinh doanh. 

Về tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, đề nghị Chính Phủ, Ngân hàng Nhà nước sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng, đặc biệt là các quy định an toàn hoạt động ngân hàng để hỗ trợ cho quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng; các cơ chế, chính sách, khuyến khích miễn giảm thuế, phí để hỗ trợ tổ chức tín dụng trong xử lý nợ xấu và các tài sản đảm bảo tiền vay, giảm thuế, phí liên quan đến các giao dịch sáp nhập, hợp nhất, mua lại. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước nâng cao vai trò hỗ trợ thiết thực đối với tổ chức tín dụng trong quá trình tái cấu trúc. 

Về thực hiện 3 đột phá chiến lược

Rà soát kết quả thực hiện 3 đột phá chiến lược, tìm ra các nguyên nhân khách quan và chủ quan, khắc phục tồn tại, khó khăn, chú trọng hoàn thiện và tạo sự đột phá về thể chế, hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư tư nhân và nước ngoài; tập trung nguồn lực ưu tiên các dự án hạ tầng kiến thiết cốt yếu, tăng cường đầu tư vào giáo dục, đào tạo hướng nghiệp và công nghệ, tạo đủ việc làm cho lao động và nâng cao hiệu suất lao động để tận dụng cơ hội dân số “vàng”. Đồng thời, tăng cường kỷ luật ngân sách, mở rộng diện khoán chi hành chính nhằm thực hiện tiết kiệm chi tiêu công.

Về Chính sách tiền tệ

Về chính sách tín dụng: tỷ lệ tăng trưởng tín dụng là mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ, do vậy để giữ vững kết quả ổn định vĩ mô năm vừa qua và hỗ trợ tăng trưởng năm sắp tới, xem xét xác định tỷ lệ tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế căn cứ kết quả thực hiện năm 2013 và nhằm đảm bảo mục tiêu tăng trưởng tín dụng đồng thời đảm bảo chất lượng, an toàn tránh hệ quả đặt mục tiêu tăng trưởng cao (ảnh hưởng lạm phát) và tiềm ẩn phát sinh nợ xấu mới, mức tăng trưởng có thể từ 13% - 15%. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì việc giao tỷ lệ tăng trưởng tín dụng cho các tổ chức tín dụng.

Về chính sách lãi suất: tiếp tục duy trì mặt bằng lãi suất thấp (tương đương mức cuối 2013) để đảm bảo đồng thời ổn định vĩ mô và hỗ trợ doanh nghiệp. Do vậy cần tiếp tục phát huy hoạt động của thị trường mở hỗ trợ thanh khoản của hệ thống tổ chức tín dụng, kết hợp công tác thanh tra giám sát để đảm bảo tính lành mạnh trong hoạt động huy động vốn. Khi thanh khoản toàn ngành và lạm phát đã đi vào ổn định, chỉ số CPI giảm về mức <7%, cần đưa ra lộ trình cụ thể nhằm tự do hóa lãi suất, đảm bảo lãi suất cho vay và huy động được xác định trên cơ sở cung cầu vốn của thị trường. Cùng với quá trình tự do hóa lãi suất, các công cụ lãi suất chính sách cũng cần từng bước được đổi mới, dần phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo hình thành được các mức lãi suất chỉ đạo theo tín hiệu thị trường, nâng cao tính hiệu quả của cơ chế chuyển tải chính sách tiền tệ thông qua kênh lãi suất. Theo đó, cần thiết lập đường cong lãi suất chuẩn của thị trường đối với tất cả các dải kỳ hạn để các ngân hàng thương mại có cơ sở xác định lãi suất phù hợp.

Về chính sách tỷ giá: Ngân hàng Nhà nước xem xét xây dựng các kịch bản điều hành tỷ giá và biên độ giảm giá đồng Việt Nam phù hợp với diễn biến của cán cân thương mại, tác động có thể gặp phải của việc kết thúc gói kích thích kinh tế QE3 của Chính phủ Mỹ trong mối tương quan với lãi suất thị trường thế giới và tỷ lệ lạm phát kỳ vọng.

Về triển khai đề án tái cơ cấu theo Quyết định 254: theo lộ trình năm 2014, hệ thống tổ chức tín dụng cần giải quyết căn bản vấn đề nợ xấu và bắt tay vào tái cơ cấu quản trị hoạt động (quản trị rủi ro hướng tới thông lệ), do vậy Ngân hàng Nhà nước cần đẩy mạnh hoạt động xử lý nợ xấu và ban hành các văn bản về quản trị rủi ro theo lộ trình đặt ra tại Quyết định số 734/QĐ-NHNN ngày 18/04/2012 về việc ban hành  Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng triển khai thực hiện Đề án tái cơ cấu theo Quyết định 254; đến năm 2014 hoàn thành căn bản tái cơ cấu tài chính (xử lý nợ xấu) và 2015 hoàn thành căn bản tái cơ cấu hoạt động và quản trị.

Do đó, trong năm 2014, đề xuất Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp để xử lý nợ xấu và hạn chế nợ xấu mới phát sinh: (i) phối hợp bộ ngành liên về vấn đề xử lý tài sản đảm bảo của các khoản nợ được bán cho VAMC; (ii) yêu cầu và giám sát thực hiện phân loại nợ đầy đủ, chính xác, ưu tiên nguồn lực trích lập dự phòng rủi ro; (iii) tăng cường công tác thanh tra giám sát đảm bảo công khai minh bạch trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, (iv) bám sát hỗ trợ phát huy vai trò của VAMC, phấn đấu đến 2015 xử lý xong số nợ xấu hiện nay và (v) triển khai áp dụng một số văn bản quan trọng về quản lý rủi ro như Thông tư 02, dự thảo thay thế Thông tư 13 về tỷ lệ đảm bảo an toàn.

Về điểu tiết thu chi ngân sách

Cùng với kế hoạch tăng bội chi trên 5%, duy trì tổng vốn đầu tư toàn xã hội cho đầu tư phát triển ở mức 30-32%/GDP năm 2014 để kích thích tăng tổng cầu, trong đó, chi ngân sách cần tập trung đầu tư cho các khu vực: (i) nông nghiệp, nông thôn nhằm tạo ra tác động lan tỏa thúc đẩy tăng trưởng trong khu vực này, từ đó kích thích tăng tổng cầu ; (ii) đẩy nhanh việc ứng trước một phần ngân sách cho địa phương giải quyết nhu cầu nhà ở tái định cư; (iii) đảm bảo nguồn lực giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là những dự án quan trọng, cấp bách, những dự án có thể hoàn thành sớm và đưa vào sử dụng ; (iv) tăng phát hành trái phiếu Chính phủ, ngoài định mức 45 nghìn tỷ đồng/năm như Quốc hội đã cho phép nhằm thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản và các công trình xây dựng dang dở. Về dài hạn, tăng cường kỷ luật ngân sách, mở rộng diện khoán chi hành chính nhằm thực hiện tiết kiệm chi tiêu công.

Về xử lý nợ xấu

(i) Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan đẩy nhanh việc ban hành và sửa đổi các quy định nhằm tạo khung pháp lý hình thành và phát triển thị trường mua bán nợ; hoàn thiện các quy định tài chính về hoạt động sáp nhập, cổ phần hóa, cơ cấu lại nợ, hoán đổi nợ thành vốn chủ sở hữu; (ii) Bộ Tư pháp khẩn trương phối hợp với các Bộ ban ngành ban hành Thông tư liên tịch về xử lý tài sản đảm bảo. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính chỉ đạo bố trí đủ vốn, giải ngân nhanh vốn đầu tư công để xử lý dứt điểm nợ đọng xây dựng cơ bản; làm rõ trách nhiệm về trả nợ xây dựng cơ bản ở địa phương, đây là giải pháp thiết thực hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản xuất, giảm nợ xấu cũng như củng cố niềm tin, đảm bảo kỷ luật tài khóa.

Về hỗ trợ thị trường bất động sản

Tiếp tục triển khai các biện pháp biện pháp hỗ trợ, điều tiết thị trường bất động sản theo Nghị quyết 01, 02 năm 2013 của Chính phủ. Bên cạnh đó, cơ quan chức năng cũng cần tiếp tục nghiên cứu, xem xét triển khai các biện pháp hỗ trợ thị trường khác như: xây dựng và phát triển thị trường tài chính nhà ở, thị trường cho vay thế chấp với nguồn vốn trung dài hạn có lãi suất thấp hơn lãi suất trên thị trường, hướng tới các đối tượng thực sự có nhu cầu về nhà ở thông qua việc hình thành các tổ chức tài chính trung gian, điển hình là Công ty tái cho vay thế chấp nhà ở; Cho phép các tổ chức tín dụng triển khai các sản phẩm tiết kiệm nhà ở,…

Mặc dù dự thảo sửa đổi Luật đất đai hiện nay đã có những điểm thay đổi, phù hợp hơn với thực tiễn, tuy nhiên, hiện vẫn còn một số vấn đề nhận được sự quan tâm của dư luận như: cơ chế Nhà nước thu hồi đất, thực hiện hỗ trợ, bồi thường, tái định cư; vấn đề định giá đất theo giá thị trường; vấn đề bảo đảm công bằng về quyền đối với đất đai cho nhóm yếu thế trong xã hội; … vẫn chưa có sự thay đổi rõ rệt so với quy định hiện hành.

Bên cạnh đó, một số nội dung đổi mới quan trọng tại Nghị quyết Trung ương số 19 còn thiếu vắng trong dự thảo Luật, điển hình là các vấn đề liên quan đến quy hoạch sử dụng đất. Do vậy, cần tiếp tục tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện để ban hành Luật đất đai trong thời gian tới, đồng thời nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai nhằm sớm đưa Luật đi vào thực tế.

Về thu hút FDI

(i) Khẩn trương xây dựng cơ chế phối hợp trong công tác quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài nhằm tăng cường sự phối hợp giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư với các bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; (ii) Công bố rộng rãi các quy hoạch đã được phê duyệt, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận thông tin về quy hoạch để xây dựng kế hoạch đầu tư; (iii) Tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ theo hướng tập trung vào một số ngành, sản phẩm trọng điểm. Đặc biệt, cụ thể hóa các tiêu chí xác định ngành, sản phẩm được hưởng ưu đãi theo diện công nghiệp hỗ trợ, nâng mức ưu đãi đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.