Các nhiệm vụ tài chính – ngân sách nhà nước đã được hoàn thành toàn diện, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước năm 2018
Năm 2018, ngành Tài chính đã chủ động đề xuất, tập trung phấn đấu thực hiện đầy đủ và đồng bộ các giải pháp tài chính - NSNN theo Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội, Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; hoàn thành toàn diện các nhiệm vụ tài chính - NSNN, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; điều hành thu, chi ngân sách quyết liệt, chủ động; giữ bội chi NSNN và nợ công trong phạm vi Quốc hội cho phép. Tapchitaichinh.vn giới thiệu phát biểu của Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng về kết quả thực hiện nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2018 tại Hội nghị Tổng kết công tác năm 2018 và triển khai nhiệm vụ tài chính – NSNN năm 2019 của ngành Tài chính.
Nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2018 được triển khai trong bối cảnh tình hình kinh tế trong nước và ngoài nước tiếp tục tiến triển tích cực. Kinh tế thế giới duy trì đà phục hồi, tăng trưởng tích cực và đồng đều nhất kể từ sau khủng hoảng, thương mại toàn cầu tăng cao nhất kể từ năm 2011...
Ở trong nước, kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng kinh tế đạt 7,08%, cao hơn kế hoạch (tăng 6,5-6,7%), 12/12 chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra (trong đó: so với năm 2017, kim ngạch xuất khẩu ước tăng 13,8%; chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 10,2%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 11,7%; giải ngân vốn FDI tăng 9,1%,…); thị trường, tỷ giá, lãi suất ổn định, lạm phát được kiểm soát (Chỉ số CPI bình quân năm 2018 tăng 3,54%; lạm phát cơ bản bình quân tăng 1,48% so với năm 2017); quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội được quan tâm thực hiện tốt.
Tuy nhiên, tình hình cũng vẫn còn nhiều yếu tố không thuận; đáng chú ý là kinh tế toàn cầu vẫn còn đối mặt với nhiều rủi ro, bất ổn do chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch gia tăng, căng thẳng trong quan hệ thương mại giữa Mỹ với một số nền kinh tế lớn (như EU, Trung Quốc, Nhật Bản), nhiều quốc gia đã chuyển sang áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt và điều chỉnh chính sách thuế, từ đó tác động đến tài chính toàn cầu và sự luân chuyển các dòng vốn đầu tư quốc tế; giá cả hàng hóa thế giới tăng cao, tạo áp lực lớn cho công tác điều hành trong nước. Trong khi đó, quy mô nền kinh tế nước ta nhỏ, độ mở lớn; quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và đầu tư công chậm và chưa rõ nét; giải ngân các nguồn vốn đầu tư công chậm; thiên tai, bão lũ, dịch bệnh diễn biến phức tạp, khó lường gây thiệt hại nghiêm trọng về người, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân. Vấn đề buôn lậu, gian lận thương mại, mất vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo trật tự an toàn xã hội ở một số địa bàn còn nhiều bất cập.
Ngay từ ngày 01/01/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2018. Trong quá trình thực hiện, Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo điều hành với các giải pháp nhằm hoàn thành cao nhất nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2018. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa phương đã xây dựng và tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình, kế hoạch hành động của bộ, ngành, địa phương mình về điều hành thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2018.
Trong bối cảnh nêu trên, thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, dưới sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; cùng với sự nỗ lực phấn đấu cao của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương, cộng đồng DN và nhân dân cả nước; cùng với quyết tâm chính trị của toàn ngành Tài chính, nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2018 đã cơ bản đạt và vượt chỉ tiêu dự toán Quốc hội quyết định, Thủ tướng Chính phủ giao, góp phần hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra. Cụ thể trên các mặt chủ yếu như sau:
Thứ nhất, tổ chức điều hành thu, chi NSNN chủ động, đảm bảo chặt chẽ, kỷ luật, kỷ cương, kết hợp hài hòa với chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế khác để đạt mục tiêu chung, góp phần quan trọng vào việc cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững theo Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội:
Điều hành thu, chi NSNN chủ động, đảm bảo chặt chẽ, siết chặt kỷ cương, kỷ luật NSNN:
Thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2018, Bộ Tài chính đã chủ động triển khai các nhiệm vụ, giải pháp được giao trong lĩnh vực tài chính - NSNN ngay từ đầu năm. Trên cơ sở theo dõi chặt chẽ tình hình, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng Chính phủ phương án điều hành NSNN năm 2018 theo kịch bản tăng trưởng kinh tế, nhằm hoàn thành cao nhất nhiệm vụ NSNN năm 2018, phấn đấu thu vượt 3% so dự toán Quốc hội quyết định, chi theo dự toán được giao, đảm bảo cân đối ngân sách các cấp, giữ bội chi và tổng mức vay của NSNN, nợ công năm 2018 trong phạm vi Quốc hội cho phép trong mọi tình huống.
Bộ Tài chính cũng đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 31/CT-TTg ngày 08 tháng 11 năm 2018 về việc chấn chỉnh, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong việc chấp hành pháp luật về NSNN, nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém đã xảy ra thời gian qua, đưa việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương tài chính - NSNN thực sự đi vào cuộc sống. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã có văn bản đề nghị các bộ, ngành và địa phương quán triệt, chỉ đạo thực hiện nghiêm Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
Về công tác thu NSNN:
Bộ Tài chính đã chỉ đạo cơ quan Thuế, Hải quan tập trung tổ chức triển khai tốt các luật thuế và nhiệm vụ thu NSNN năm 2018 ngay từ ngày đầu, tháng đầu; chủ động phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, cấp uỷ và chính quyền địa phương, động viên và tranh thủ sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ của cộng đồng DN và nhân dân để làm tốt công tác quản lý thu NSNN.
Triển khai đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp quản lý thu, nhất là ở các địa bàn trọng điểm, khu vực kinh tế phi chính thức, các khoản theo hình thức thu khoán; kết hợp việc khai thác nguồn thu, mở rộng cơ sở thuế (kể cả đối tượng và căn cứ tính thuế), với việc đẩy mạnh chống thất thu, chuyển giá, buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế và xử lý thu hồi nợ đọng thuế (tính đến 31/12/2018, cơ quan Thuế đã thu hồi được khoảng 32 nghìn tỷ đồng nợ thuế; cơ quan Hải quan đã thu hồi và xử lý nợ thuế trên 1,52 nghìn tỷ đồng), phấn đấu giảm số thuế nợ đọng năm 2018 dưới 5% tổng số thu NSNN; thường xuyên tổ chức giao ban giữa các cơ quan chức năng để xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh, đề xuất các giải pháp quản lý hiệu quả hơn đối với các lĩnh vực, địa bàn có số thu còn tồn đọng lớn; tăng cường thanh tra, kiểm tra hồ sơ khai thuế của DN, chú trọng việc thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề về chuyển giá, thương mại điện tử, kinh doanh qua mạng; tăng cường quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu, sân bay, cảng biển, trong đó tập trung kiểm tra về trị giá, mã số, xuất xứ đối với những mặt hàng có thuế suất cao, kim ngạch lớn,... qua đó, góp phần tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các DN và tăng thu cho NSNN.
Đồng thời, Bộ Tài chính đã tiếp tục rà soát để ban hành theo thẩm quyền (như: Thông tư số 03/2018/TT-BTC ngày 12/01/2018 sửa đổi, bổ sung quy định mức thu, miễn, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí quyền hoạt động viễn thông và lệ phí cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ viễn thông và giấy phép nghiệp vụ viễn thông; Thông tư số 09/2018/TT-BTC ngày 25/01/2018 quy định về phí quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp; Thông tư số 14/2018/TT-BTC ngày 07/02/2018 quy định phí trồng trọt và giống cây lâm nghiệp; Thông tư số 22/2018/TT-BTC ngày 22/02/2018 sửa đổi, bổ sung quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định điều kiện kinh doanh để cấp giấy phép sản xuất rượu, giấy phép sản xuất thuốc lá; Thông tư số 55/2018/TT-BTC ngày 25/6/2018 sửa đổi, bổ sung quy định thu phí trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường; Thông tư số 56/2018/TT-BTC ngày 25/6/2018 quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường do cơ quan trung ương thực hiện thẩm định; Thông tư số 105/2018/TT-BTC ngày 15/11/2018 quy định mức thu, chế độ thu, nộp lệ phí cấp giấy phép nhận chìm ở biển; Thông tư số 114/2018/TT-BTC ngày 15/11/2018 sửa đổi, bổ sung hướng dẫn nghiệp vụ thuế và thu khác đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu....) hoặc trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các chính sách về tài chính, thuế phù hợp với tình hình thực tế, đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi phát triển sản xuất - kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và thực hiện các cam kết hội nhập, giảm thời gian, chi phí cho người nộp thuế, như: trình Quốc hội quyết định tỷ lệ phân chia nguồn thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước giai đoạn 2017-2020 và cho ý kiến đối với dự án Luật quản lý thuế (sửa đổi); trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 579/2018/UBTVQH14 ngày 26/9/2018 về biểu thuế bảo vệ môi trường (thay thế các Nghị quyết số 1268/2011/UBTVQH12 và Nghị quyết số 888a/2015/UBTVQH13 của Ủy ban thường vụ Quốc hội); trình Chính phủ ban hành Nghị định số 119/2018/NĐ-CP ngày 12/9/2018 quy định về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ; xem xét, ban hành các Nghị định sửa đổi, bổ sung quy định về lệ phí trước bạ, Nghị định sửa đổi, bổ sung quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế TTĐB, Nghị định sửa đổi, bổ sung quy định về điều kiện kinh doanh cửa hàng miễn thuế, kho, bãi, địa điểm làm thủ tục hải quan, tập kết, kiểm tra, giám sát hải quan; trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 10/2018/QĐ-TTg ngày 01/03/2018 sửa đổi, bổ sung quy định về việc tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu, tiêu hủy, chuyển nhượng đối với xe ô tô, xe hai bánh gắn máy của đối tượng được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ tại Việt Nam.
Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện 03 dự án Luật thuế TNDN, Luật thuế TTĐB, Luật thuế GTGT để trình Quốc hội bổ sung vào chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật năm 2019 (dự kiến trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7, tháng 5/2019).
Trong triển khai thực hiện, đã tích cực đẩy nhanh cải cách hành chính, hiện đại hóa công tác thu thuế, hải quan theo lộ trình đã đề ra; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến văn bản pháp luật, chính sách chế độ mới; tăng cường đối thoại, hỗ trợ, tư vấn pháp luật về thuế cho DN, người dân.
Tại thời điểm tháng 10/2018, trên cơ sở đánh giá sơ bộ về thu NSNN của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các tập đoàn, tổng công ty lớn, Bộ Tài chính đã báo cáo Chính phủ trình Quốc hội đánh giá thu NSNN năm 2018 vượt khoảng 39,2 nghìn tỷ đồng (+3%).
Cùng với kinh tế tăng trưởng cao hơn kế hoạch, kết hợp với các giải pháp đã thực hiện, đến ngày 31/12/2018, thu cân đối NSNN ước đạt khoảng 1.422,7 nghìn tỷ đồng, vượt 103,5 nghìn tỷ đồng (+7,8%) so dự toán, tăng 64,3 nghìn tỷ đồng so số báo cáo Quốc hội, tỷ lệ động viên vào NSNN đạt 25,7%GDP, riêng thuế và phí là 21,1% GDP (mục tiêu giai đoạn 2016-2020 tương ứng là 23,5% GDP và 21% GDP). Trong đó, thu ngân sách trung ương ước đạt 104,3% so dự toán, thu ngân sách địa phương về tổng thể đạt 112,5% so dự toán, chủ yếu do vượt thu tiền sử dụng đất, tuy nhiên, do không bù trừ được giữa các địa phương, nên không kể tiền sử dụng đất và thu xổ số kiến thiết, vẫn còn một số địa phương giảm thu cân đối ngân sách địa phương.
Về chi NSNN:
Triển khai Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ và quyết định của Thủ tướng Chính phủ, ngay từ đầu năm, Bộ Tài chính đã ban hành văn bản hướng dẫn các bộ, ngành và địa phương tổ chức triển khai thực hiện dự toán chi NSNN năm 2018; trong đó, yêu cầu triệt để tiết kiệm các khoản chi ngân sách; rà soát, sắp xếp các nhiệm vụ chi chưa thực sự cấp thiết; hạn chế mua sắm xe ô tô công và trang thiết bị đắt tiền; hạn chế tối đa tổ chức hội nghị, lễ hội, hội thảo, khánh tiết, công tác nước ngoài; kiên quyết cắt giảm những khoản chi thường xuyên ngân sách trung ương sau ngày 30/6/2018 chưa phân bổ.
Trong quá trình điều hành, Bộ Tài chính tiếp tục rà soát trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các chính sách, chế độ chi NSNN (như: Thông tư số 01/2018/TT-BTC ngày 02/01/2018 quy định việc quản lý và sử dụng kinh phí bảo đảm trật tự an toàn giao thông; Thông tư số 07/2018/TT-BTC ngày 24/01/2018 hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020; Thông tư số 13/2018/TT-BTC ngày 06/02/2018 quy định việc quản lý và sử dụng kinh phí NSNN bảo đảm cho công tác điều ước quốc tế và công tác thỏa thuận quốc tế; Thông tư số 52/2018/TT-BTC ngày 24/5/2018 sửa đổi, bổ sung quy định về quản lý, thanh toán vốn đầu tư sử dụng nguồn vốn NSNN; Thông tư số 64/2018/TT-BTC ngày 31/7/2018 sửa đổi, bổ sung quy định về quyết toán dự án hoàn thành thuộc nguồn vốn nhà nước; Thông tư số 86/2018/TT-BTC ngày 18/9/2018 hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp thực hiện Chương trình mục tiêu giáo dục vùng núi, vùng dân tộc thiểu số, vùng khó khăn giai đoạn 2016 – 2020; Thông tư số 101/2018/TT-BTC ngày 14/11/2018 quy định quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng và người trực tiếp tham gia kháng chiến do ngành lao động - thương binh và xã hội quản lý; Thông tư số 121/2018/TT-BTC ngày 12/12/2018 hướng dẫn quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí chi thường xuyên để thực hiện hoạt động ứng cứu sự cố đảm bảo an toàn thông tin mạng,...), góp phần hoàn thiện thể chế, tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN, đảm bảo chi trong phạm vi dự toán Quốc hội quyết định; báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước; rà soát đánh giá tình hình hoạt động và kiến nghị giải pháp tăng cường quản lý các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách.
Đồng thời, ban hành các văn bản hướng dẫn, đôn đốc các bộ, cơ quan trung ương và địa phương về việc điều hành NSNN, thực hiện chi thường xuyên, thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản và mua sắm tài sản từ nguồn NSNN năm 2018. Tích cực đẩy mạnh công tác thanh tra tài chính - ngân sách, phát hiện, chấn chỉnh và xử lý kịp thời các sai phạm (tổ chức 42 đoàn thanh tra tại một số bộ, địa phương, tập trung vào các lĩnh vực quản lý, điều hành ngân sách; quản lý sử dụng vốn đầu tư XDCB; quản lý tài chính DN; quản lý các nguồn kinh phí tại các đơn vị hành chính, sự nghiệp, DN; chấp hành pháp luật về thuế, phí, lệ phí, giá, tài sản nhà nước...).
Trước diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, thương mại thế giới, cũng như bão lũ, dịch bệnh khó lường, tác động bất lợi đến sản xuất - kinh doanh, đời sống nhân dân và điều hành NSNN năm 2018, Bộ Tài chính đã hướng dẫn UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tăng cường công tác điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính - NSĐP trong những tháng cuối năm 2018 nhằm hoàn thành vượt dự toán thu NSNN được giao để có nguồn đáp ứng các nhiệm vụ chi theo dự toán và xử lý các nhiệm vụ chi quan trọng, cấp bách, đột xuất phát sinh theo quy định.
Các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã nghiêm túc tổ chức triển khai các giải pháp đã đề ra. Trên cơ sở dự toán NSNN được giao, các bộ, cơ quan trung ương đã chủ động bố trí các nhiệm vụ chi gắn với sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, phấn đấu tăng các nguồn thu theo quy định để dành nguồn tự cân đối đảm bảo nhu cầu kinh phí tăng thêm khi thực hiện điều chỉnh tăng tiền lương cơ sở lên mức 1,39 triệu đồng/tháng từ ngày 01/7/2018; UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khi phân bổ và giao dự toán cho ngân sách cấp dưới đã dành mức tiết kiệm 10% chi thường xuyên năm 2018 (không kể các khoản chi lương, có tính chất lương) theo quy định để tạo nguồn cải cách tiền lương theo Nghị quyết Quốc hội.
Cơ quan tài chính và KBNN tăng cường công tác quản lý, kiểm soát chi NSNN, đảm bảo chặt chẽ, đúng chế độ quy định (năm 2018, thông qua công tác kiểm soát chi, toàn hệ thống KBNN đã phát hiện trên 14,1 nghìn khoản chi chưa đủ thủ tục theo quy định, đã yêu cầu bổ sung các thủ tục cần thiết và số tiền thực từ chối thanh toán là 35,2 tỷ đồng; đã từ chối thanh toán gần 59 tỷ đồng chi đầu tư phát triển do chủ đầu tư đề nghị thanh toán khối lượng phát sinh chưa được phê duyệt, một số khoản chi chưa đủ hồ sơ theo quy định).
Nhìn chung, công tác điều hành NSNN năm 2018 chủ động, tích cực; nhờ thu NSNN đạt khá, các nhiệm vụ chi cũng được đảm bảo theo dự toán, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ kinh tế, chính trị của các đơn vị sử dụng ngân sách và có thêm nguồn lực xử lý kịp thời các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách phát sinh về đầu tư hạ tầng kinh tế - xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, đảm bảo an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh.
Cơ cấu chi chuyển dịch tích cực, tỷ trọng chi đầu tư phát triển đạt trên 27% (gồm chi từ nguồn tăng thu tiền sử dụng đất và sử dụng dự phòng ngân sách cho những công trình cấp bách, dự án phòng chống thiên tai, chống biến đổi khí hậu) (mục tiêu là 25-26%), chi thường xuyên còn dưới 62% tổng chi NSNN (mục tiêu là dưới 64%). Dự phòng ngân sách các cấp được sử dụng đúng mục đích, đúng quy định, trong đó ngân sách trung ương đã sử dụng trên 2,5 nghìn tỷ đồng dự phòng để hỗ trợ các địa phương để khắc phục hậu quả bão, mưa lũ, hỗ trợ giống khôi phục sản xuất sau thiên tai. Các địa phương đã chủ động sử dụng dự phòng ngân sách địa phương và nguồn lực tại chỗ của địa phương để khôi phục sản xuất, cơ sở hạ tầng thiết yếu phòng chống dịch bệnh, hỗ trợ đời sống nhân dân. Bên cạnh đó, đã thực hiện xuất cấp trên 122,4 nghìn tấn gạo dự trữ quốc gia để cứu đói, cứu trợ cho nhân dân, hỗ trợ học sinh vùng khó khăn.
Riêng về công tác giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản nguồn NSNN năm 2018 vẫn chậm chuyển biến, mặc dù Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công. Định kỳ hàng tháng, Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình giải ngân vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN và kiến nghị các giải pháp thúc đẩy tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư năm 2018. Đồng thời, đối với các bộ, ngành, địa phương giải ngân chậm, Bộ Tài chính đã có văn bản yêu cầu báo cáo nguyên nhân và đề xuất phương án xử lý để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Ước đến ngày 31/12/2018, vốn giải ngân nguồn vốn NSNN mới đạt 67,6% dự toán (cùng kỳ năm 2017 đạt 70,7% dự toán), trong đó vốn ngoài nước đạt 39,6%, vốn trái phiếu Chính phủ đạt 40,4% dự toán.
Về cân đối NSNN:
Bội chi NSNN năm 2018 được điều hành trong phạm vi dự toán Quốc hội quyết định (dự toán là 3,7% GDP, ước thực hiện dưới 3,6% GDP thực hiện, GDP kế hoạch là 5.530 tỷ đồng; GDP ước thực hiện đạt khoảng 5.535 tỷ đồng). Tổng mức vay của NSNN (bao gồm vay để bù đắp bội chi và vay để trả nợ gốc) ước thực hiện thấp hơn dự toán Quốc hội (do giảm vay của ngân sách địa phương), góp phần tích cực giảm nợ công. Công tác quản lý nợ công có tiến bộ, thời hạn khoản vay được kéo dài, lãi suất theo xu hướng hạ thấp, hạn chế tác động của các rủi ro.
Nhằm góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, Bộ Tài chính đã thường xuyên chia sẻ thông tin về tình hình thu, chi NSNN, tình hình giải ngân vốn đầu tư XDCB với Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong công tác điều hành thị trường tài chính và thị trường tiền tệ. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước trong việc tập trung quản lý các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của NSNN; điều hòa luồng tiền ngoại tệ giữa NSNN với Ngân hàng Nhà nước; tổ chức phát hành trái phiếu Chính phủ với khối lượng, lãi suất và thời điểm phát hành phù hợp, kết hợp với điều hành sử dụng hiệu quả ngân quỹ nhà nước, qua đó vừa đáp ứng được yêu cầu huy động vốn cho NSNN, vừa góp phần thực thi chính sách tiền tệ, ổn định tỷ giá, lãi suất.
Thứ hai, công tác xây dựng thể chế, sắp xếp tổ chức bộ máy, thúc đẩy mạnh mẽ cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, phát triển DN:
Về công tác xây dựng thể chế:
Năm 2018, Bộ Tài chính được giao xây dựng 02 luật, 53 đề án của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (trong đó có 13 đề án được giao bổ sung). Trong năm, Bộ Tài chính đã trình Quốc hội cho ý kiến đối với dự án Luật quản lý thuế (sửa đổi); trình Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 02 nghị quyết (Nghị quyết số 528/2018/NQ-UBTVQH14 ngày 26/5/2018 về chi phí quản lý bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp giai đoạn 2019-2021; Nghị quyết số 579/2018/UBTVQH14 ngày 26/9/2018 về biểu thuế bảo vệ môi trường); trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ 48 đề án (gồm: 01 nghị quyết, 25 nghị định, 10 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 12 đề án khác); ban hành 130 thông tư.
Mặc dù khối lượng văn bản quy phạm pháp luật Bộ Tài chính được giao chủ trì xây dựng là khá lớn, Bộ Tài chính đã hoàn thành nhiệm vụ được giao (trong tổng số 163 nghị định Chính phủ đã ban hành trong năm 2018, có 31 nghị định Bộ Tài chính đã trình, chiếm gần 20%), đáp ứng được yêu cầu về tiến độ và chất lượng.
Điểm nhấn trong công tác xây dựng thể chế năm 2018 là đã xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành đồng bộ, đầy đủ, kịp thời các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các Luật quản lý, sử dụng tài sản công và Luật Quản lý nợ công; tạo cơ sở để tổ chức triển khai tốt các Luật này. Trong triển khai thực hiện, đã đổi mới và tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến văn bản, chính sách, chế độ mới; tăng cường đối thoại, hỗ trợ pháp lý cho DN và người dân, nhất là trong lĩnh vực thuế và hải quan.
Cho đến nay, việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các chính sách, chế độ về tài chính - NSNN đã đáp ứng được yêu cầu là phù hợp với tình hình thực tế và cam kết hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài chính - NSNN, tăng cường quản lý thu, chi NSNN chặt chẽ, quản lý, sử dụng tài sản công hiệu quả, siết chặt kỷ cương, kỷ luật tài chính; đồng thời, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo thuận lợi cho DN, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong đó, riêng đối với sản xuất nông nghiệp, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành 03 nghị định hướng dẫn về: (i) bảo hiểm nông nghiệp, (ii) quy định về hỗ trợ kinh phí sử dụng sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi, (iii) quy định chi tiết về giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi và hỗ trợ tiền sử dụng sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi; đồng thời, tiếp tục nghiên cứu, rà soát các chính sách thuế, phí, lệ phí đối với lĩnh vực nông nghiệp theo hướng áp dụng các mức ưu đãi cao nhất, giảm tối đa việc huy động từ lĩnh vực này nhằm tháo gỡ khó khăn, khuyến khích đầu tư để ổn định và phát triển sản xuất nông nghiệp. Đối với ngành công nghiệp sản xuất ô tô, trong bối cảnh thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt ATIGA đối với xe ô tô nguyên chiếc các loại giảm xuống 0% từ ngày 01/01/2018, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành nghị định về Chương trình ưu đãi thuế nhập khẩu linh kiện ô tô; đồng thời, tiếp tục áp dụng các chính sách khuyến khích các DN đầu tư, mở rộng sản xuất, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ở trong nước.
Về cải cách hành chính:
Ngay từ cuối năm 2017, Bộ Tài chính đã ban hành kế hoạch cải cách hành chính năm 2018 với 89 nhiệm vụ cụ thể thuộc 6 lĩnh vực; ban hành kế hoạch rà soát văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực tài chính năm 2018. Tiếp đó, trong năm, đã ban hành kế hoạch thực hiện hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính kỳ 2014-2018; ban hành Chỉ thị về việc tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính với các giải pháp nhằm phấn đấu các chỉ số cải cách đạt chuẩn xếp hạng các nước ASEAN 4 và hướng tới tiêu chuẩn của các nước OECD; ban hành kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết 19-2018/NQ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2018, định hướng đến năm 2020, với 66 giải pháp, nhiệm vụ gắn với 188 sản phẩm đầu ra, trọng tâm là lĩnh vực thuế, hải quan, quản lý nợ công, chứng khoán, bảo hiểm, nhằm góp phần tích cực cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Đồng thời, đã phê duyệt phương án cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tài chính, theo đó dự kiến thực hiện cắt giảm, đơn giản hóa 190/370 điều kiện (cắt giảm 92 điều kiện, đơn giản hóa 98 điều kiện), đạt 51,4%. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã kiến nghị sửa đổi 6 luật và 16 nghị định của Chính phủ liên quan đến điều kiện kinh doanh nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi và cắt giảm chi phí cho DN.
Kết quả thực hiện năm 2018, Bộ Tài chính đã hoàn thành 85/85 nhiệm vụ cải cách hành chính theo kế hoạch (Bộ Tài chính đã đề ra 89 nhiệm vụ, trong đó có 04 nhiệm vụ đã được Quốc hội, Chính phủ phê duyệt điều chỉnh thời hạn hoàn thành sang năm 2019) (gồm 64 nhiệm vụ có tiến độ hoàn thành trong năm 2018 và 21 nhiệm vụ thường xuyên); trong đó, đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 151/2018/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 2018 sửa đổi, bổ sung một số quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài chính, làm cơ sở cắt giảm và đơn giản hóa 117/190 điều kiện kinh doanh thuộc 13 ngành nghề (đạt 61,6%).
Đồng thời, đã thực hiện rà soát và định kỳ công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần; đề nghị Bộ Tư pháp trình cấp có thẩm quyền để bãi bỏ, chấm dứt hiệu lực toàn bộ đối với 11 văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Tài chính chủ trì, soạn thảo trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành không còn áp dụng trên thực tế. Bên cạnh đó, đã tích cực phối hợp với các bộ, ngành sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, kiểm tra chuyên ngành có liên quan đến lĩnh vực tài chính.
Tích cực rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, Bộ Tài chính đã thực hiện bãi bỏ đã bãi bỏ 18 thủ tục hành chính trong tổng số 166 thủ tục cần rà soát bãi bỏ (chiếm 10,8%) và đơn giản hoá đối với 111 thủ tục trong tổng số 139 thủ tục cần rà soát đơn giản hóa (chiếm 79,9%), qua đó góp phần tạo thuận lợi cho người dân và DN để cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia (Theo Báo cáo môi trường kinh doanh toàn cầu của Ngân hàng Thế giới công bố ngày 31/10/2018, chi phí thực hiện thủ tục hành chính tại biên giới đối với 01 lô hàng xuất là 290 USD (bằng năm 2017 và giảm 19 USD so với năm 2016), 01 lô hàng nhập là 373 USD (bằng năm 2017 và giảm 19 USD so với năm 2016); thời gian thông quan trực tiếp tại cửa khẩu của Việt Nam đối với hàng xuất khẩu giảm 03 giờ (từ 58 năm 2016 xuống 55 giờ năm 2017 và 2018); đối với hàng nhập khẩu giảm 06 giờ (từ 62 năm 2016 xuống 56 giờ năm 2017 và 2018). Ước tính với trên 11 triệu tờ khai của 11 tháng năm 2018, DN tiết kiệm được trên 200 triệu USD cho thủ tục thông quan; tiết kiệm trên 16 triệu giờ lưu kho đối với hàng xuất khẩu và trên 34 triệu giờ lưu kho bãi đối với hàng nhập khẩu).
Tiếp tục mở rộng ứng dụng công nghệ thông tin, điện tử hóa trong lĩnh vực thuế, hải quan; kết nối thông tin nộp thuế điện tử giữa cơ quan thuế, hải quan, kho bạc và các ngân hàng thương mại; nâng cao chất lượng khai thuế điện tử, nộp thuế điện tử, mở rộng diện thực hiện hoàn thuế điện tử, nhằm tạo thuận lợi, giảm thời gian, chi phí giao dịch hành chính thuế cho DN (đến nay, hệ thống khai thuế qua mạng đã được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố với 99,92% số DN tham gia sử dụng dịch vụ khai thuế qua mạng; 98,41% DN đăng ký tham gia nộp thuế điện tử; hoàn thuế theo phương thức điện tử chiếm tỷ trọng 93,14% tổng số hồ sơ được hoàn thuế).
Tổng số dịch vụ công trực tuyến cơ quan Hải quan đạt tối thiểu mức độ 3 là 173/183 thủ tục hành chính; đã có 12/14 bộ, ngành tham gia kết nối với 145/284 thủ tục hành chính được thực hiện qua cơ chế một cửa quốc gia, cơ chế một cửa ASEAN; số lượng hàng hóa xuất nhập khẩu phải kiểm tra chuyên ngành giảm 6% (từ 82.760 xuống còn 77.736 mặt hàng) so với quý II năm 2015 (mục tiêu giảm 50%).
Với những nỗ lực cải cách hành chính trong thời gian qua, đặc biệt là trong lĩnh vực thuế, hải quan, đã được cộng đồng DN, nhà đầu tư trong và ngoài nước đánh giá cao (theo Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ tại Hội nghị công bố chỉ số cải cách hành chính năm 2017 (Par Index 2017) ngày 02/5/2018, chỉ số cải cách hành chính của Bộ Tài chính đạt 84,42/100 điểm, xếp thứ 3/19 bộ, cơ quan ngang bộ. Báo cáo môi trường kinh doanh toàn cầu của Ngân hàng Thế giới, môi trường kinh doanh của Việt Nam đạt 68,38 điểm (cao hơn 1,59 điểm so với năm trước), trong đó chỉ số nộp thuế (Paying Taxes) đạt 62,87 điểm, tăng 1,75 điểm).
Công tác sắp xếp lại tổ chức bộ máy, biên chế:
Bộ Tài chính tiếp tục triển khai sắp xếp lại tổ chức bộ máy, biên chế theo Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và các Nghị quyết số 18-NQ/TW về tiếp tục đổi mới sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực hiệu quả, Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII).
Kết quả năm 2018, Bộ Tài chính đã thực hiện cắt giảm chỉ tiêu biên chế công chức 4,7% so chỉ tiêu được giao năm 2015; cắt giảm được 536 đầu mối, trong đó cấp phòng và tương đương thuộc các vụ/cục thuộc cơ quan Bộ giảm 05 đơn vị; cấp phòng thuộc đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ giảm 03 đơn vị; cấp phòng thuộc cơ quan tổng cục giảm 25 đơn vị; cấp chi cục và tương đương giảm 67 đơn vị (trong đó, giải thể 01 Chi cục Hải quan thuộc Cục hải quan tỉnh; giải thể 43 Phòng giao dịch thuộc KBNN cấp tỉnh; hợp nhất, sáp nhập 10 Chi cục Dự trữ nhà nước thành 05 Chi cục; hợp nhất 34 Chi cục thuế cấp huyện thành 16 Chi cục thuế khu vực.; cấp tổ/đội tại địa phương cắt giảm được 436 tổ/đội.
Thứ ba, tạo chuyển biến rõ nét và thực chất trong cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế:
Về tái cấu trúc thị trường tài chính:
Bộ Tài chính đã chủ động thực hiện rà soát, hoàn thiện các văn bản pháp lý nhằm phát triển bền vững thị trường chứng khoán, bảo hiểm; đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, duy trì sự phát triển ổn định của các thị trường tài chính. Trong đó:
- Đối với thị trường chứng khoán: Bộ Tài chính đã cơ bản hoàn thiện hồ sơ xây dựng dự án Luật chứng khoán (sửa đổi), tổ chức lấy ý kiến rộng rãi và tiếp thu, hoàn thiện dự thảo Luật, trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2019); đã trình Chính phủ Đề án thành lập Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam trên cơ sở sáp nhập 2 Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và Hà Nội (HNX); đang hoàn thiện Đề án cơ cấu lại thị trường chứng khoán và bảo hiểm giai đoạn 2018-2020 và định hướng đến năm 2025 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, tập trung xây dựng, ban hành các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán, như đa dạng hóa sản phẩm phái sinh (Covered Warrants, Future Contracts), nâng cấp công nghệ (Fintech), công ty chứng khoán; cơ chế tạo lập thị trường, tăng cường quản trị công ty (CG code),... nhằm đa dạng hóa, thu hút các nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nước ngoài.
Chịu ảnh hưởng chung của thị trường thế giới (chính sách tăng lãi suất của FED, căng thẳng thương mại Mỹ - Trung dẫn đến hiện tượng rút vốn ở các thị trường mới nổi,...), sau khi tăng mạnh, đạt mức cao nhất là 1.204,3 điểm trong quý I/2018, thị trường chứng khoán trong nước điều chỉnh giảm mạnh còn 898,5 điểm và khôi phục lại đà tăng trở lại và duy trì ổn định quý III và IV/2018.
Nhìn chung, hoạt động của thị trường chứng khoán tương đối ổn định, đã lọt vào danh sách xem xét nâng hạng lên thị trường mới nổi Russell. Quy mô vốn hóa cuối năm 2018 đạt khoảng 78% GDP, tăng trên 11% so cuối năm 2017, vượt mục tiêu đạt 70%GDP vào năm 2020.
- Đối với thị trường bảo hiểm: Tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường bảo hiểm phát triển lành mạnh, đáp ứng các cam kết hội nhập quốc tế, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành 03 nghị định quy định về: (i) bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc (Nghị định số 23/2018/NĐ-CP ngày 23/02/2018); (ii) xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số (Nghị định số 48/2018/NĐ-CP ngày 21/3/2018); (iii) bảo hiểm nông nghiệp (Nghị định số 58/2018/NĐ-CP ngày 18/4/2018); trình Chính phủ để ban hành Nghị định về bảo hiểm vi mô của các tổ chức chính trị - xã hội; trình Thủ tướng Chính phủ để ban hành Quyết định về việc thực hiện chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp giai đoạn 2018-2020. Đồng thời, tích cực hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đã có văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách bảo hiểm tàu cá theo Nghị định số 17/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ. Tăng cường giám sát, nâng cao năng lực tài chính các DN bảo hiểm; tăng cường quản trị rủi ro DN bảo hiểm theo thông lệ quốc tế.
Hiện nay có 64 DN hoạt động kinh doanh bảo hiểm, trong đó có 30 DN bảo hiểm phi nhân thọ, 18 DN bảo hiểm nhân thọ, 02 DN tái bảo hiểm, 14 DN môi giới bảo hiểm. Kết quả năm 2018, tổng doanh thu phí bảo hiểm ước đạt 133,6 nghìn tỷ đồng, tăng gần 24% so năm 2017; tổng giá trị tài sản của các DN kinh doanh bảo hiểm đạt 384,1 nghìn tỷ đồng, tăng 21,1% so với năm 2017; đầu tư trở lại nền kinh tế gần 320 nghìn tỷ đồng, tăng 29,5% so với năm 2017; chi trả quyền lợi bảo hiểm khoảng 36,4 nghìn tỷ đồng, tăng 23,8% so năm 2017.
Về tái cơ cấu DNNN:
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các đề án, chính sách về sắp xếp, đổi mới quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN và thúc đẩy tái cơ cấu, hoàn thành tiến độ cổ phần hóa các DNNN theo tinh thần chỉ đạo của Đảng và Nhà nước (các Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII) về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN; Nghị quyết Quốc hội về kế hoạch tài chính 05 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020; Nghị quyết số 97/NQ-CP ngày 02/10/2017 của Chính phủ về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TW; các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về tái cơ cấu lại DNNN, trọng tâm là các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước giai đoạn 2016-2020; về sắp xếp lại quản lý Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển DN); Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 32/2018/NĐ-CP ngày 8/3/2018 sửa đổi, bổ sung về đầu tư vốn nhà nước vào DN và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại DN và 7 nghị định về điều lệ và tổ chức hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty (Dầu khí, Hóa chất, Điện lực, Than và Khoáng sản, Viễn thông quân đội, Đường sắt, Lương thực miền Bắc). Đồng thời, đã tích cực phối hợp, đôn đốc với các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại DN, thu đủ số cổ tức, lợi nhuận sau thuế, tiền bán vốn tại các DN theo Nghị quyết Quốc hội.
Trong năm 2018, mới có 19 DNNN được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cơ cấu lại (lũy kế đã có 35 DN được phê duyệt phương án cơ cấu lại theo Quyết định số 707/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ); 15/85 DN được phê duyệt phương án cổ phần hóa với tổng giá trị DN là 29,9 nghìn tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 15,54 nghìn tỷ đồng; 21 DN thực hiện bán cổ phần lần đầu với tổng giá trị bán đấu giá công khai là 13,8 nghìn tỷ đồng, thu về được 21,64 nghìn tỷ đồng.
Các DN đã thoái được 7,8 nghìn tỷ đồng, thu về 18,2 nghìn tỷ đồng, trong đó: thoái vốn nhà nước tại 18 đơn vị theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg là 1,3 nghìn tỷ đồng, thu về 2,5 nghìn tỷ đồng; các tập đoàn, tổng công ty nhà nước thoái 6,5 nghìn tỷ đồng, thu về 15,7 nghìn tỷ đồng, trong đó SCIC thực hiện thoái vốn tại 9 DN với giá trị 2,76 nghìn tỷ đồng, thu về 10 nghìn tỷ đồng. Như vậy, trong năm 2018, tổng giá trị bán (từ cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước) là 21,6 nghìn tỷ đồng, thu về xấp xỉ 40 nghìn tỷ đồng.
Về cơ cấu lại NSNN và nợ công:
Bám sát các quan điểm, mục tiêu, chủ trương, định hướng cơ cấu lại NSNN và nợ công để đảm bảo nền tài chính an toàn, bền vững theo Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội về Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020; Nghị quyết số 51/NQ-CP ngày 19/6/2017 của Chính phủ về ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 07-NQ/TW, Bộ Tài chính đã ban hành kế hoạch hành động của ngành tài chính, với 166 nhiệm vụ/đề án cụ thể. Đồng thời, tích cực phối hợp với các bộ, ngành, địa phương trong việc tổ chức triển khai thực hiện, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.
Cùng với việc tích cực xây dựng, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Luật quản lý nợ công (trình Chính phủ ban hành 6 Nghị định về: quản lý và sử dụng Quỹ tích lũy trả nợ (Nghị định số 92/2018/NĐ-CP ngày 26/6/2018); về nghiệp vụ quản lý nợ công (Nghị định số 94/2018/NĐ-CP ngày 30/6/2018); về cho vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài (Nghị định số 97/2018/NĐ-CP ngày 30/6/2018); về cấp và quản lý bảo lãnh chính phủ (Nghị định số 91/2018/NĐ-CP ngày 26/6/2018); về quản lý nợ của chính quyền địa phương (Nghị định số 93/2018/NĐ-CP ngày 30/6/2018); về phát hành, đăng ký, lưu ký, niêm yết và giao dịch công cụ nợ của Chính phủ trên thị trường chứng khoán (Nghị định số 95/2018/NĐ-CP ngày 30/6/2018) (có hiệu lực từ ngày 01/7/2018).
Bộ Tài chính đã báo cáo Quốc hội về tình hình huy động, quản lý sử dụng vốn vay và các chỉ tiêu an toàn nợ công năm 2017 và kế hoạch năm 2018; cập nhật, báo cáo Thủ tướng Chính phủ chương trình quản lý nợ trung hạn 3 năm giai đoạn 2018-2020 gắn với thực hiện kế hoạch tài chính ngân sách, đảm bảo các chỉ tiêu an toàn nợ trong giới hạn được Quốc hội phê duyệt; trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch vay trả nợ của Chính phủ và các hạn mức vay nợ năm 2018. Đồng thời, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo Thủ tướng Chính phủ đánh giá thực hiện hạn mức huy động vốn vay ODA và vay ưu đãi nước ngoài của Chính phủ cho đầu tư công giai đoạn 2016-2020, trong đó cảnh báo những rủi ro vượt hạn mức, ảnh hướng đến việc tuân thủ Nghị quyết của Quốc hội về dự toán NSNN hàng năm cũng như trong trung hạn.
Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nợ công theo hướng bền vững, đảm bảo khả năng trả nợ. Đa dạng các nhà đầu tư trái phiếu Chính phủ (giảm tỷ trọng nắm giữ trái phiếu của ngân hàng thương mại từ khoảng 78% cuối năm 2016 xuống còn khoảng 53,1%), phát hành trái phiếu kỳ hạn từ 5 năm trở lên (Năm 2011 kỳ hạn phát hành trái phiếu Chính phủ bình quân là 3,9 năm; năm 2015 là 6,96 năm, năm 2016 là 8,71 năm; năm 2017 là 13,5 năm; năm 2018 là 12,63 năm) (gồm kỳ hạn dài 20-30 năm) để kéo dài kỳ hạn danh mục trái phiếu Chính phủ (Kỳ hạn bình quân danh mục trái phiếu Chính phủ cuối năm 2011 là 1,84 năm; cuối năm 2018 là 6,72 năm), giảm lãi suất huy động trái phiếu Chính phủ (lãi suất trái phiếu Chính phủ bình quân đã giảm từ 12,0% năm 2011 xuống còn 6% năm 2015; 6,3% năm 2016; 5,98% năm 2017 và 4,67% năm 2018). Tăng cường quản lý, giám sát nợ Chính phủ bảo lãnh; kiểm soát bội chi và vay của ngân sách địa phương trong phạm vi dự toán Quốc hội quyết định.
Ước tính đến 31/12/2018, dư nợ công dưới 61% GDP, dư nợ Chính phủ dưới 52% GDP, dư nợ vay nước ngoài của quốc gia khoảng 49,7% GDP, trong phạm vi Quốc hội cho phép.
Về đẩy mạnh đổi mới cơ chế tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập:
Triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập và Quyết định số 695/QĐ-TTg ngày 21/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, Bộ Tài chính đã ban hành các văn bản hướng dẫn về chế độ thu nộp, quản lý, sử dụng một số loại phí, lệ phí.
Đồng thời, tích cực phối hợp với các bộ, ngành và các địa phương trong việc xây dựng nghị định quy định cơ chế tự chủ trong các lĩnh vực; xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch mạng lưới đơn vị sự nghiệp công lập và danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN thuộc phạm vi quản lý của các bộ, ngành; thẩm định phương án tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý của các bộ, ngành theo quy định. Hiện đang tổ chức đánh giá, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định số 16/2015/NĐ-CP về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập để đáp ứng yêu cầu tình hình mới.
Sau 3 năm, các Bộ mới trình Chính phủ ban hành 02 nghị định quy định về cơ chế tự chủ trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác. Vẫn còn 6/8 nghị định trong các lĩnh vực (y tế, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp, thông tin truyền thông, văn hóa) chưa được ban hành. Nhiều bộ, địa phương vẫn chưa ban hành quy hoạch mạng lưới đơn vị sự nghiệp công lập, danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN do bộ, địa phương quản lý.
Thứ tư, tăng cường quản lý thị trường, giá cả, kiểm soát lạm phát:
Theo chức năng được giao, Bộ Tài chính đã chủ động tham mưu với Chính phủ các biện pháp phù hợp nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng. Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành và địa phương quản lý, kiểm soát chặt chẽ giá cả các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu; tập trung kiểm soát chặt chẽ giá các mặt hàng có tác động lớn đến chỉ số CPI; đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát về quản lý giá (Bộ Tài chính đã triển khai 24 đoàn kiểm tra theo kế hoạch đối với các mặt hàng, dịch vụ bao gồm: thức ăn chăn nuôi, thuốc sát trùng, tẩy trùng, trị bệnh cho gia súc, gia cầm và thủy sản, thuốc bảo vệ thực vật, đường, cảng biển, đăng kiểm, hoa tiêu, than, xăng dầu và dịch vụ thẩm định giá, tại một số địa bàn trọng yếu, như: Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ, Hà Nội, Ninh Bình, Hà Nam, thành phố Hồ Chí Minh, Phú Thọ, Quảng Bình, Hải Phòng, Vũng Tàu, Bắc Ninh, Sơn La, Quảng Ninh, Hải Dương, Đồng Nai, Bình Dương,...)
Trong năm 2018, Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ Công Thương thực hiện 24 lần điều hành giá kinh doanh xăng dầu, đảm bảo nguyên tắc sát với diễn biến thị trường, hạn chế tác động lên chỉ số CPI; phối hợp với Bộ Y tế ban hành thông tư quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi phí khám bệnh chữa bệnh trong một số trường hợp; đề xuất các giải pháp giải quyết các vướng mắc trong thực hiện định mức, thẩm định thanh quyết toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng thông tư hướng dẫn xây dựng, thẩm định và ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật, phương pháp xây dựng giá dịch vụ giáo dục đào tạo (các địa phương cơ bản đã thực hiện lộ trình tăng học phí các cấp trong tháng 8,9/2018 theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ); phối hợp với các bộ, ngành theo dõi chặt chẽ tình hình và có biện pháp điều hành phù hợp đối với các mặt hàng khác như khí hóa lỏng (LPG), thuốc và vật tư y tế, vật liệu xây dựng, cước bưu chính, viễn thông, các dịch vụ vận tải đường bộ, đường không, hàng hải,...
Các bộ, ngành, địa phương đã tăng cường công tác quản lý giá cả, bình ổn thị trường trên địa bàn theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Tài chính; tích cực tổ chức theo dõi sát diễn biến cung, cầu hàng hóa; kịp thời áp dụng các biện pháp điều tiết cung cầu, bình ổn thị trường, không để xảy ra thiếu hàng, sốt giá, nhất là trong các dịp lễ, tết; tăng cường kiểm tra giám sát, xử lý nghiêm các vi phạm quy định về quản lý giá, thuế, phí đối với các mặt hàng thuộc danh mục nhà nước định giá, mặt hàng bình ổn giá, hàng hóa thiết yếu; kiểm tra, xử lý các hành vi mua bán, vận chuyển hàng cấm, hàng giả, hàng kém chất lượng, mất vệ sinh an toàn thực phẩm.
Đồng thời, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về giá trên các phương tiện thông tin đại chúng, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Mặc dù chịu áp lực lớn, song với những giải pháp đã triển khai đã có kết quả tích cực, giá cả các mặt hàng thiết yếu đã được kiểm soát tốt, góp phần thực hiện thành công mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4% Quốc hội đã đề ra (chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân tăng 3,54%, lạm phát cơ bản bình quân tăng 1,48% so với năm 2017).
Thứ năm, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản công:
Triển khai thực hiện Luật quản lý, sử dụng tài sản công, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 16/16 văn bản hướng dẫn (trong đó đã ban hành 01 nghị quyết, 13 nghị định của Chính phủ và 01 quyết định của Thủ tướng Chính phủ) và ban hành theo thẩm quyền 7 thông tư hướng dẫn.
Quán triệt tinh thần quản lý chặt chẽ tài sản công theo Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ, Bộ Tài chính đã Chính phủ trình Quốc hội báo cáo về tình hình quản lý, sử dụng tài sản nhà nước. Đồng thời, đã ban hành các văn bản hướng dẫn các bộ, ngành và địa phương thực hiện mua sắm tài sản công từ nguồn NSNN năm 2018 đảm bảo chặt chẽ, tiết kiệm, đúng định mức, tiêu chuẩn cho phép; xử lý một số vấn đề chuyển tiếp trong quản lý, sử dụng tài sản công và mua xe ô tô phục vụ công tác năm 2018, trong đó yêu cầu tiếp tục rà soát, sắp xếp sử dụng hiệu quả xe ô tô công, chưa đề xuất mua mới (tiếp tục tạm dừng việc mua sắm xe ô tô chức danh, xe ô tô phục vụ công tác chung, xe ô tô chuyên dùng) đến khi Chính phủ ban hành Nghị định quy định về tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý, sử dụng xe ô tô công.
Các bộ, ngành, địa phương đã nghiêm túc triển khai thực hiện, tạm dừng mua sắm xe ô tô công, hạn chế mua sắm trang thiết bị đắt tiền theo quy định, rà soát, sắp xếp và đề xuất phương án xử lý các cơ sở nhà, đất theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; báo cáo kết quả rà soát các cơ sở nhà, đất và phương án sắp xếp lại, xử lý quỹ nhà, đất của các bộ, ngành đã di dời đến trụ sở mới...
Hầu hết các bộ, địa phương đã tổ chức tập huấn, tuyên truyền phổ biến Luật quản lý, sử dụng tài sản công và các văn bản hướng dẫn cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị trực thuộc. Qua đó, góp phần nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật trong việc quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản công.
Thứ sáu, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra tài chính - ngân sách:
Trong năm 2018, Bộ Tài chính đã thực hiện 98,66 nghìn cuộc thanh tra, kiểm tra, tập trung vào các lĩnh vực: quản lý thu, chi ngân sách; quản lý, sử dụng vốn đầu tư; quản lý tài chính DN; quản lý giá, chứng khoán, bảo hiểm...; kiểm tra gần 597 nghìn hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế và điều tra chống buôn lậu bắt giữ 15,54 nghìn vụ. Qua đó, kiến nghị xử lý 64,74 nghìn tỷ đồng, gồm: (i) xử lý tài chính 23,14 nghìn tỷ đồng, trong đó riêng kiến nghị thu vào NSNN 17,94 nghìn tỷ đồng, đã thực hiện thu 16,6 nghìn tỷ đồng, bằng 92,5% tổng số kiến nghị; (ii) kiến nghị xử phạt vi phạm hành chính 4,2 nghìn tỷ đồng; (iii) giảm lỗ 37,4 nghìn tỷ đồng.
Đồng thời, đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, góp phần tăng cường ý thức chấp hành pháp luật của các cơ quan, đơn vị, cá nhân và DN, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tăng cường kỷ cương, kỷ luật tài chính. Kết quả thanh tra, kiểm tra tại một số lĩnh vực chủ yếu như sau:
- Thanh tra Bộ Tài chính đã triển khai 42 cuộc thanh tra, kiểm tra; ban hành 35 kết luận thanh tra (gồm cả năm 2017 chuyển sang), kiến nghị xử lý về tài chính là 6,8 nghìn tỷ đồng, trong đó: kiến nghị thu nộp ngân sách 1,7 nghìn tỷ đồng; giảm trừ dự toán, cấp kinh phí 86 tỷ đồng; giảm trừ quyết toán, không thanh toán kinh phí 32 tỷ đồng; xử lý tài chính khác 2,54 nghìn tỷ đồng.
- Cơ quan Thuế đã thực hiện 87,2 nghìn cuộc thanh tra, kiểm tra và kiểm tra gần 597 nghìn hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế; qua đó kiến nghị xử lý thu vào NSNN 16,3 nghìn tỷ đồng (đã thực hiện thu 11,67 nghìn tỷ đồng, bằng 71,6% số kiến nghị), xử phạt vi phạm hành chính 4,2 nghìn tỷ đồng, giảm lỗ 37,4 nghìn tỷ đồng.
- Cơ quan Hải quan đã thực hiện 6,9 nghìn cuộc thanh tra, kiểm tra (trong đó 6,55 nghìn cuộc kiểm tra sau thông quan), kiến nghị xử lý tài chính gần 3,7 nghìn tỷ đồng, trong đó thu vào NSNN gần 3,29 nghìn tỷ đồng (số đã thu vào NSNN 2,39 nghìn tỷ đồng, bằng 72,6% số kiến nghị).
- Các cơ quan KBNN, Tổng cục Dự trữ Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm cũng tích cực triển khai công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành theo kế hoạch đã đề ra. Qua đó phát hiện, chấn chỉnh, xử lý kịp thời các sai phạm.
Đồng thời, Bộ Tài chính đã làm tốt vai trò Thường trực Ban Chỉ đạo 389 quốc gia, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương triển khai nhiều giải pháp đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; nắm tình hình địa bàn, thực hiện thành công nhiều chuyên án, bắt giữ, xử lý nhiều vụ việc buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ nền sản xuất hàng hóa trong nước, bảo vệ môi trường, sức khỏe người dân, chống thất thu NSNN. Năm 2018, đã bắt giữ được 15,54 nghìn vụ buôn lậu và gian lận thương mại; thu nộp NSNN khoảng 307 tỷ đồng; cơ quan Hải quan đã khởi tố 62 vụ, chuyển cơ quan khác khởi tố 130 vụ; đã bắt giữ 191 vụ vi phạm liên quan đến chất ma túy.
Thứ bảy, chủ động hội nhập tài chính quốc tế:
Bộ Tài chính đã tích cực tham gia hoạt động hợp tác tài chính ASEAN, ASEAN+3, APEC, ASEM; tham dự hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN, ASEAN+3, APEC, ASEM; tham gia các hoạt động trong các diễn đàn G20; mở rộng các quan hệ hợp tác với nhiều đối tác và tổ chức quốc tế của Liên hợp quốc và Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á, đánh giá về tình hình triển vọng kinh tế tài chính của Việt Nam và thế giới, thúc đẩy và tăng cường các hoạt động hợp tác song phương và đa phương.
Trong khuôn khổ Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), Bộ Tài chính tiếp tục tham gia thảo luận trong các nhóm công tác về Tự do hóa dịch vụ tài chính ASEAN (WC-FSL), Diễn đàn bảo hiểm ASEAN (AIFo), Hội nghị nhà quản lý bảo hiểm ASEAN (AIRM),...; tích cực tham gia các hoạt động hợp tác hải quan như: Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN, thực hiện thí điểm cơ chế tự chứng nhận xuất xứ trong ASEAN, cơ chế quá cảnh hải quan ASEAN.
Đồng thời, tiếp tục thực hiện cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo lộ trình trong khuôn khổ 10 hiệp định thương mại tự do đang thực thi; hoàn thiện trình Chính phủ ban hành Nghị định Biểu thuế xuất khẩu ưu đãi, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt, Danh mục hàng hóa và thuế hỗn hợp, Danh mục hàng hóa và thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan để thực hiện Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương; tích cực tham gia đàm phán các nội dung về cắt giảm thuế quan, quy tắc xuất xứ và dịch vụ tài chính trong các hiệp định mà Việt Nam đang tham gia, bao gồm các Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Israel (VIFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam và khối 04 nước Bắc Âu (VN-EFTA).
Theo dõi tiến độ phê chuẩn để chuẩn bị thực thi đối với các hiệp định đã hoàn tất đàm phán như: Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Cu Ba, ASEAN- Hồng Kông, Việt Nam - EU. Bên cạnh đó, đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện các giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trong nước, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh. Trong năm đã đàm phán ký kết 14 hiệp định vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài với tổng giá trị 1,25 tỷ USD.
Đánh giá chung, năm 2018 toàn ngành Tài chính đã chủ động đề xuất, tập trung phấn đấu thực hiện đầy đủ và đồng bộ các giải pháp tài chính - NSNN theo Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội, Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; hoàn thành toàn diện các nhiệm vụ tài chính - NSNN, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; điều hành thu, chi ngân sách quyết liệt, chủ động; giữ bội chi NSNN và nợ công trong phạm vi Quốc hội cho phép.
Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố thuận lợi, còn phát sinh nhiều khó khăn, thách thức, tác động không thuận đến việc thực hiện nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2018; đáng chú ý là việc cơ cấu lại nền kinh tế và đầu tư công còn chậm; cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại DN, nhiệm vụ xử lý những dự án trọng điểm thua lỗ của nhà nước chuyển biến chưa rõ nét; giải ngân vốn đầu tư công chậm; nợ nước ngoài của quốc gia còn ở mức cao; việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương tài chính chưa nghiêm; tình trạng thất thoát, lãng phí vẫn còn xảy ra tại một số cơ quan, đơn vị.