Cải cách chính sách tài chính nhằm phát triển cân bằng thị trường tài chính Việt Nam

Bài viết đăng trên Tạp chí Tài chính Kỳ 1+2 – Tháng 01/2020

Phát triển cân bằng thị trường tài chính có tác dụng to lớn đối với nền kinh tế, đó là tạo sự liên thông giữa các thị trường thông qua đa dạng các kênh đầu tư, kênh phân phối, tối ưu các sản phẩm tài chính hiện đại; giảm sức ép đối với các ngân hàng thương mại khi phải cung cấp nguồn vốn quá lớn cho nền kinh tế...

Cải cách chính sách tài chính nhằm phát triển cân bằng thị trường tài chính Việt Nam.
Cải cách chính sách tài chính nhằm phát triển cân bằng thị trường tài chính Việt Nam.

Tuy nhiên, thị trường tài chính Việt Nam phát triển còn mất cân bằng, do mang tính kỹ thuật và nguyên nhân từ chính sách. Bài viết phân tích thực trạng chính sách tài chính đối với phát triển cân bằng thị trường tài chính và đề xuất hướng đổi mới chính sách tài chính nhằm phát triển cân bằng thị trường tài chính Việt Nam.

1. Tổng quan về chính sách tài chính nhằm phát triển cân bằng thị trường tài chính

Đến nay, Việt Nam đã có hệ thống thị trường tài chính (TTTC) khá đầy đủ về mặt lượng, từng bước khẳng định là kênh huy động vốn đầu tư quan trọng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, để tạo điều kiện hỗ trợ phát triển cân bằng TTTC, chính sách tài chính cần được xây dựng thực hiện theo hướng hỗ trợ, tạo điều kiện phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thị trường. Để có hệ thống TTTC phát triển cân bằng cần những điều kiện sau:

- Xác lập đầy đủ các bộ phận thị trường theo sự phát triển của nền kinh tế thị trường về hàng hóa, chủ thể, kênh phân phối, khung pháp lý...

- Tạo lập và tổ chức hoạt động có hiệu quả các cơ sở giao dịch như: Sở giao dịch chứng khoán, hàng hóa, ngoại hối... Mỗi sở có những hàng hóa khác nhau, song luôn có sự tương tác với nhau.

- Sự ra đời và hoạt động chuyên nghiệp và có hiệu quả của những nhà môi giới, nhà tạo lập thị trường, nhà kinh doanh sơ cấp, tổ chức bảo lãnh... không chỉ trên từng loại thị trường chuyên biệt mà còn gắn kết các bộ phận thị trường.

- Ứng dụng công nghệ đồng bộ trên TTTC.Điều này đặc biệt quan trọng trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0. Các công ty công nghệ tài chính (Fintech) giúp tạo ra nhiều sản phẩm tài mới thay thế các sản phẩm truyền thống, các sản phẩm liên kết/bán chéo giữa các thị trường, tăng sự tương tác/kênh phân phối, minh bạch thông tin. Một hệ sinh thái Fintech đầy đủ giữa Chính phủ, các doanh nghiệp tài chính, các công ty Fintech là điều kiện không thể thiếu khi thiết lập sự cân bằng trong hệ thống TTTC.

- Khung pháp lý để phát triển cân bằng hệ thống TTTC phải đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, luôn phù hợp với thị trường và nên kinh tế. Đối với các nước đang phát triển, bàn tay hữu hình của Nhà nước cùng với trách nhiệm giải trình của các cấp quản lý là rất quan trọng, một mặt vừa thu hút các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước tham gia thị trường, quản lý có hiệu quả dòng vốn vào - ra khỏi thị trường, mặt khác, tránh gây bất ổn cho thị trường cũng như nền kinh tế.

2. Thực trạng chính sách tài chính đối với phát triển cân bằng thị trường tài chính Việt Nam

Trong thời gian qua, chính sách tài chính đã có những đóng góp tích cực vào sự phát triển của từng bộ phận của TTTC, hướng tới phát triển cân bằng TTTC. Phát triển cân bằng TTTC có tác dụng to lớn đối với nền kinh tế: Tạo ra sự liên thông giữa các thị trường thông qua đa dạng các kênh đầu tư, kênh phân phối, tối ưu các sản phẩm tài chính hiện đại, giảm sức ép đối với các ngân hàng thương mại (NHTM) khi phải cung cấp nguồn vốn tín dụng quá lớn cho nền kinh tế, trong khi nguồn vốn của các NHTM lại chủ yếu là vốn ngắn hạn, qua đó giúp giảm rủi ro và nợ xấu cho các NHTM. Khi phát triển cân bằng TTTC sẽ tạo điều kiện phát triển các dịch vụ tài chính phi ngân hàng khác như: Bảo hiểm, cho thuê tài chính, cho vay ngang hàng...

Cải cách chính sách tài chính nhằm phát triển cân bằng thị trường tài chính Việt Nam - Ảnh 1

Đối với thị trường vốn: Trong gần 20 năm xây dựng và phát triển, thị trường vốn của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, chính sách cho thị trường này có nhiều thay đổi cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thị trường. Thị trường vốn từng bước thể hiện vai trò là kênh dẫn vốn có hiệu quả cho nền kinh tế với tỷ trọng cung ứng vốn cho nền kinh tế năm sau cao năm trước, hiện nay tỷ lệ cung ứng vốn của thị trường này đã lên tới 35,8%.

Thị trường cổ phiếu có sự tăng trưởng nhất định, với các chính sách và biện pháp về đẩy mạnh cổ phần hóa, niêm yết cổ phiếu trên thị trường, đến nay đã có khoảng 750 công ty niêm yết, giá trị vốn hóa thị trường tăng mạnh. Cụ thể, vốn hóa thị trường cổ phiếu năm 2016 đạt 43,2% GDP; năm 2017 đạt 66% GDP; năm 2018 đạt 71,6% GDP và đến tháng 6/2019, đạt 4,3 triệu tỷ đồng, tương đương 78% GDP. Trong 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 20%. Thị trường Upcom với 804 mã cổ phiếu, giá trị vốn hóa khoảng 894 nghìn tỷ đồng; thị trường chứng khoán (TTCK) phái sinh tuy mới đi vào hoạt động (tháng 8/2017) nhưng cũng có khối lượng giao dịch lớn với 19 triệu hợp đồng vào năm 2018. Với những kết quả này, thời gian qua, TTCK Việt Nam được tổ chức FTSE đưa vào danh sách xem xét nâng hạng TTCK mới nổi.

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) cũng có bước phát triển tích cực, nhiều doanh nghiệp phát hành TPDN để huy động vốn. Vì thế, tốc độ tăng trưởng bình quân thị trường này đạt 39%/năm. Đầu năm 2019, do điều kiện và cơ chế phát hành TPDN theo Nghị định số 163/2018/NĐ-CP ngày 4/12/2018 của Chính phủ quy định về phát hành TPDN rất thông thoáng, nên 6 tháng đầu năm 2019 thị trường TPDN có sự tăng trưởng vượt bậc, đạt 116.085 tỷ đồng, tăng 21,2% so với cùng kỳ năm 2018, giá trị vốn hóa thị trường đạt 10,22% GDP (so với năm 2018). Tuy nhiên, thị trường TPDN phát triển trong bối cảnh thiếu vắng các tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín, nên đầu tư vào TPDN tiền ẩn rủi ro lớn, nhất là những trái phiếu của các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng, bất động sản.

Thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) có quy mô niêm yết khoảng 20% GDP vào tháng 6/2019. Điểm nổi bật của thị trường TPCP là kỳ hạn đã được cải thiện, lãi suất trái phiếu ở các kỳ hạn đã giảm xuống từ 0,6-1,9%/năm, qua đó tiết kiệm chi phí huy động vốn cho ngân sách nhà nước (NSNN). Thanh khoản của thị trường được cải thiện, giá trị giao dịch của thị trường bình quân đạt 4.500 tỷ đồng/phiên (năm 2017) và 4.600 tỷ đồng/phiên (năm 2018). 

Như vậy, trong gần 20 năm phát triển TTCK, các chính sách phát triển thị trường nói chung, chính sách tài chính nói riêng đã tạo điều kiện “nâng đỡ” thị trường, thu hút các chủ thể tham gia thị trường thông qua chính sách huy động, sử dụng đặc biệt là việc sử dụng công cụ thuế, phí, lệ phí, cũng như các quy định về xử lý vi phạm trong giao dịch, mua bán chứng ổn định của thị trường. Tuy nhiên, đánh giá tổng thể, thị trường còn những hạn chế. Đầu tiên là tình trạng biến động thái quá của thị trường chứng khoán mỗi khi thị trường đi xuống. Điều này tác động tiêu cực đến thành quả đầu tư, các nhà đầu tư tổ chức cũng như các nhà đầu tư cá nhân.

Đối với thị trường tiền tệ, tỷ lệ tín dụng/GDP luôn ở mức cao, hiện nay tỷ lệ này là 132%/GDP. Mặc dù, thị trường vốn đã có sự tăng trưởng khá, nhưng vốn cho tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế Việt Nam vẫn chủ yếu thông qua kênh tín dụng. Điều này đã và đang tiềm ẩn các rủi ro cho ngân hàng cũng như thị trường tín dụng ngân hàng.

Với nguồn vốn hiện tại của các NHTM, tỷ trọng vốn ngắn hạn chế khoảng 70%, trong khi các NHTM có dư nợ tín dụng trung dài hạn khá lớn. Vài năm gần đây, tốc độ tăng trưởng tín dụng tuy đã chậm lại, nhưng vẫn cao hơn tốc độ huy động vốn. Do đó, rủi ro không chỉ xảy ra khi dùng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn quá lớn, mà còn rủi ro trong việc cho vay lớn hơn số vốn huy động trong hệ thống ngân hàng. Tuy thanh khoản của từng ngân hàng vẫn được đảm bảo, các điều kiện vĩ mô tương đối ổn định nhưng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế chưa giảm như kỳ vọng.

Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều, ngoài nguyên nhân do phải trích dự phòng lớn cho các khoản nợ xấu phát sinh từ nhiều năm qua; chi phí quản lý của mỗi ngân hàng, thì phải kể đến nguyên nhân sâu xa là sự kém liên thông giữa các bộ phận của thị trường tiền tệ, mà cụ thể là thị trường liên ngân hàng và thị trường tiền gửi; giữa thị trường TPDN và thị trường tiền tệ, thị trường tiền tệ và TTCK. Khi các doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp với lãi 1,2- 1,5 lần lãi suất huy động của các tổ chức tín dụng, buộc các tổ chức cũng phải đưa ra lãi suất huy động hấp dẫn để thu hút vốn, nhất là đối với các NHTM nhỏ. Khi lãi suất đầu vào không giảm, lại có xu hướng tăng, thì lãi suất cho vay khó, trừ khi có sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với các NHTM có đối tượng được vay ưu đãi.

Bên cạnh đó, sự liên thông giữa thị trường nội tệ và thị trương ngoại tệ là vấn đề cần quan tâm. Khi chênh lệch giữa lãi suất VND và đồng USD vẫn còn rất lớn (lãi suất huy động USD là 0% cho các kỳ; lãi suất VND từ 5,5 - 8% cho các kỳ hạn) thì tín dụng ngoại tệ vẫn có điều kiện để tăng. Cụ thể, tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm 2019 là 7,33%, trong đó tín dụng VND tăng 6,91%, tín dụng ngoại tệ tăng 9,8%. So với cùng kỳ năm 2018, tín dụng VND tăng 6,85%, tín dụng ngoại tệ tăng 9,47%. Lý giải cho sự tăng mạnh này, theo một số chuyên gia là do các doanh nghiệp tranh thủ vay ngoại tệ trước thời điểm ngày 31/3/2019 - Thời điểm chấm dứt cho vay ngoại tệ ngắn hạn theo Thông tư số 42/2018/TT-NHNN ngày 21/12/2018 sửa đổi, bổ sung Thông tư số 24/2015/TT-NHNN về quy định cho vay bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Do TTTC là một thể thống nhất, các vấn đề về lãi suất, tỷ giá, lạm phát, dòng vốn vào - ra... ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển cân bằng thị trường. Tại Việt Nam, chính sách tài chính do Bộ Tài chính, NHNN (liên quan đến huy động và sử dụng vốn của các NHTM) xây dựng và chỉ đạo thực hiện, đã góp sức rất lớn trong việc xây dựng và phát triển các bộ phận thị trường, cũng như tạo điều kiện để phát triển cân bằng TTTC. Mặc dù vậy, thực trạng mất cân bằng TTTC ở Việt Nam được bàn đến từ nhiều năm nay, cũng có những hạn chế từ phía cơ chế, chính sách.

Cải cách chính sách tài chính nhằm phát triển cân bằng thị trường tài chính Việt Nam - Ảnh 2

Về nhận thức, TTTC phức tạp hơn nhiều so với phát triển các định chế tài chính. Với chính sách tài chính đa lĩnh vực và chính sách tiền tệ đa mục tiêu như hiện nay, phát triển TTTC mới nhằm đến mục tiêu quản lý. Điều này tạo ra khoảng trống pháp lý cho sự phát cân bằng thị trường. Nhiều nội dung quản lý các thị trường bộ phận được xây dựng vào các thời gian khác nhau, với những nội dung ít gắn kết với nhau (các tiêu chuẩn, tiêu chí...) hoặc thường thay đổi sau khoảng thời gian nhất định, trong khi việc kết nối và chia sẻ thông tin giữa các bộ phận của thị trường còn hạn chế, từ đó nhận diện những rủi ro trọng yếu hoặc có tính hệ thống của thị trường hay những rủi ro bắt nguồn từ những yếu tố vĩ mô chưa được quan tâm và cảnh báo sớm.

Một số nguyên tắc cốt lõi mang tính định tính chưa được chú trọng ngay từ đầu (ví dụ, các bộ quy tắc đạo đức quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử, các nguyên tắc quản trị cũng như các chủ thể tham gia thị trường...). Vấn đề phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng trong phát triển cân bằng TTTC nhưng chưa được quan tâm thỏa đáng. Trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp là yếu tố vô cùng quan trọng, có tính quyết định đến niềm tin của thị trường nhưng lại chưa được người hành nghề thực hiện nghiêm túc. Đây là yếu tố tiềm ẩn rủi ro lớn cho sự phát triển cân bằng TTTC.

3. Đổi mới chính sách tài chính nhằm cân bằng thị trường tài chính Việt Nam

3.1. Định hướng phát triển thị trường tài chính Việt Nam

- Đối với TTCK: TTTC Việt Nam có nhiều tiềm năng để tiếp tục phát triển. Thời gian qua, Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán đến năm 2020; Chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 cũng như triển khai thực hiện các cam kết khu vực và quốc tế. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã trình Chính phủ phê duyệt kế hoạch tổng thể là cơ cấu lại và phát triển TTCK trước mắt tới năm 2020 và lộ trình tới năm 2025. Kế hoạch này đặt ra mục tiêu đến năm 2020, điều chỉnh quy mô của TTCK đạt 100% GDP và 120% GDP vào năm 2025. Quy mô thị trường trái phiếu đạt 47% GDP vào năm 2020 và 55% GDP vào năm 2025.

Để xây dựng TTCK phát triển nhanh, lành mạnh, bền vững và an toàn, Chính phủ cam kết: (i) Củng cố và tăng cường hơn nữa sự ổn định, gia tăng sức chống đỡ của hệ thống tài chính - ngân hàng, trong đó có TTCK; (ii) Chính phủ làm mọi cách để duy trì và khơi thông các động lực tăng trưởng. Tập trung rà soát, hoàn thiện thể chế, chính sách tạo chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về cả chất và lượng của TTCK, nâng cao vai trò, vị thế của TTCK trong nền kinh tế. TTCK phải thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn chủ lực cho nền kinh tế.

- Đối với thị trường tiền tệ: Theo Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng: “ngân hàng và hoạt động các tổ chức tín dụng là huyết mạch của nền kinh tế, giữ vai trò trọng yếu trong tổng thế hệ thống tài chính Việt Nam. Ổn định hoạt động chức tín dụng đóng vai trò chủ chốt trong ổn định tiền tệ và ổn định tại tài chính, là điều kiện tiên quyết để ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững và phải được bảo đảm bằng sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác, cùng sự phát triển hài hòa, cân đối giữa khu vực ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm”.

Nhà nước thông qua vai trò của NHNN, kiến tạo môi trường kinh doanh tiền tệ, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, thượng tôn pháp luật và tôn trọng các quy luật thị trường. Nhà nước can thiệp chủ yếu bằng công cụ thị trường hoặc thông qua nguồn lực tài chính Nhà nước, tạo mọi điều kiện thuận lợi để khu vực tư nhân phát triển trên cơ sở tuân thủ pháp luật. Các tổ chức tín dụng trong nước đóng vai trò chủ lực, hoạt động minh bạch, an toàn, hiệu quả bền vững; dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến, phù hợp với chuẩn mực hoạt động theo thông lệ quốc tế, hướng tới đạt trình độ phát triển của nhóm 4 nước dẫn đầu khu vực ASEAN vào năm 2025; đáp ứng nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng ngày càng gia tăng của nền kinh tế, tiến tới tài chính toàn diện vào năm 2030 .

Như vậy, về chiến lược phát triển của từng bộ phận thị trường rất rõ ràng, chỉ rõ kết quả phai đạt được cho từng giai đoạn. Nhưng sự phát triển cân bằng hệ thống TTTC không phải là phép cộng của các chiến lược nêu trên, do đó, rất cần có sự điều chỉnh, đổi mới về cơ chế, chính sách, trong đó có chính sách tài chính nhàm hướng đến sự cân bằng thị trường nói chung.

3.2. Cải cách, đổi mới chính sách tài chính nhằm phát triển cân bằng thị trường tài chính

Chiến lược của TTTC Việt Nam là hướng đến sự phát triển hợp lý giữa thị trường tiền tệ và TTCK, giữa thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu, giữa thị trường TPCP và TPDN. Bên cạnh những chính sách phát triển chiều rộng, chính sách tài chính cần có những nội dung bao trùm và xuyên suốt để hướng tới chiều sâu của sự cân bằng TTTC, cụ thể như sau:

(i) Hoàn thiện khung khổ pháp lý, cấu trúc lại các thị trường để hoạt động hiệu quả hơn.

- Bộ Tài chính và NHNN cần rà soát bổ sung, chỉnh sửa các luật, nghị định có liên quan đến sự phát triển TTTC như: Luật Tổ chức tín dụng, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Kế toán, quản lý ngoại hối, thanh toán... theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng, sát với thông lệ quốc tế để các dự luật có tính ổn định lâu dài trình Quốc hội thông qua. Điều chỉnh hoạt động công bố thông tin của các chủ thể tham gia thị trường theo nguyên tắc công khai, công bằng, kịp thời và minh bạch.

- Chính sách tài chính đổi mới để thực hiện có hiệu quả quá trình tái cấu trúc từng bộ phận của thị trường theo hướng hiện đại, vận hành theo các thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho các bộ phận của TTTC có sự liên thông chặt chẽ với nhau và có khả năng liên kết với các TTTC khu vực. Mở rộng và cơ cấu lại các nhà đầu tư trên thị trường, đặc biệt là nhà đầu tư có tổ chức, đảm bảo có đầy đủ các yếu tố cấu thành một thị trường hiệu quả. Cụ thể: Thực hiện tái cấu trúc các chủ thể tham gia thị trường theo hướng xây dựng các tiêu chí để thanh lọc một số tổ chức yếu kém kể cả công ty chứng khoán và ngân hàng; Rà soát và phát triển thêm các nhà đầu tư có tổ chức; Hình thành thêm các sở giao dịch/sàn giao dịch/trung tâm thị trường còn thiếu, tạo nơi mua bán đầy đủ và kết nối với các sở giao dịch/sàn giao dịch hiện có. Phát triển các thành viên chuyên nghiệp trên các TTTC theo các tiêu chí, điều kiện cụ thể, công khai. Một số vấn đề khác cần được đồng bộ phát triển là hình thành và phát triển các nhà môi giới chuyên nghiệp trên các TTTC, tránh sự phát triển tự phát trong môi giới (bất động sản, tiền tệ...), gây hoang mang nhà đầu tư.

(ii) Đổi mới chính sách tài chính nhằm phát triển cân bằng TTTC.

- Bộ Tài chính và NHNN rà soát, sửa đổi một số quy định về mức  phạt trong lĩnh vực chứng khoán, tín dụng, dịch vụ ngân hàng, kinh doanh tiền tệ, bảo hiểm, thanh toán và các dịch vụ có liên quan đến TTTC theo hướng bao quát được tất cả các hành vi vi phạm, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm để đảm bảo tính khả thi của pháp luật. Từng bước nâng cao nhận thức của các chủ thể tham gia thị trường về tuân thủ pháp luật, coi việc tuân thủ pháp luật là nhu cầu tự thân.

- Ban hành các quy định về huy động và sử dụng vốn thông qua các kênh truyền thống và cả các kênh phi truyền thống (các hình thức huy động của công nghệ tài chính, qua mạng xã hội, của các tổ chức, cá nhân huy động biến tướng dưới nhiều hình thức khác nhau).

- Rà soát công cụ thuế trong chính sách tài chính đối với các chủ thể ứng dụng đồng bộ công nghệ trên các TTTC, phát triển các kênh phân phối mới qua các thiết bị thông minh, ứng dụng rộng rãi công nghệ hiện đại trong xác thực giao dịch... Việc thiết lập các Big Data, hệ sinh thái Fintech tập trung là nội dung cần hướng tới trong chính sách tài chính, , qua đó đảm bảo tính bảo mật, nhanh chóng, an toàn, tiện lợi, chuyên nghiệp và sự liên thông trong các TTTC.

- Có chính sách tài chính cụ thể để phát triển hạ tầng thanh toán giữa các TTTC , đặc biệt giữa TTCK và thị trường tiền tệ liên ngân hàng, để dòng vốn được luân chuyển nhanh hơn, hiệu quả hơn, giúp cơ quan quản lý ngăn chặn những hành vi hối lộ, rửa tiền hoặc biến tướng huy động tài chính đa cấp, dẫn đến lừa đảo, chiếm dụng vốn bất hợp pháp.

(iii) Chính sách tài chính hỗ trợ việc thành lập các tổ chức đánh giá xếp hạng tín nhiệm độc lập. Do ý nghĩa quan trọng của tố chức này với sự cân bằng TTTC nói chung và TTCK nói riêng, ngoài viêc tạo hành lang pháp lý, việc xem xét cơ chế hỗ trợ tổ chức này khi mới thành lập là rất cần thiết. Một số hỗ trợ như: Hỗ trợ về kỹ thuật, tài chính, đào tạo nguồn nhân lực... cũng như hỗ trợ tiếp cận các thông tin về các công cụ nợ, làm cơ sở cho các nhà đầu tư đánh giá mức độ rủi ro và khả năng sinh lời của các chứng khoán.

Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia năm 2017, 2018;
2. Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam thường niên (2018) do Ngân hàng Thế giới, Công ty tài chính quốc tế (IFC) và Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ KHĐT) đồng chủ trì, tháng 12/2018;
3. Lê Hoàng Nga (2004), Thị trường tiền tệ Việt Nam trong quá trình hội nhập, NXB Chính trị Quốc gia;
4. Nguyễn Thành Long (2017), Giải pháp hoàn thiện công tác tái cấu trúc thị trường chứng khoán Việt Nam, đề tài cấp bộ Bộ Tài chính;
5. Nguyễn Quang Thương (2018), Ổn định tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam, đề tài cấp bộ Bộ Tài chính;
6. Tạp chí Chứng khoán số 246 tháng 4/2019, số 249, tháng 7/2019.