Cảnh giác bẫy tự do hóa thương mại
Trong một báo cáo mới đây, Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR - Đại học Quốc gia Hà Nội) nhận định: sự gần gũi về địa lý, giàu tài nguyên và ở một trình độ sản xuất thấp hơn Trung Quốc có thể khiến Việt Nam đang dần bị hút vào vòng xoáy "giải công nghiệp hóa”. Việc tham gia vào Khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) - thông qua đó đa số hàng rào thuế quan giữa ASEAN với Trung Quốc được gỡ bỏ - có thể khiến hiệu ứng "giải công nghiệp hóa" trở nên rõ nét hơn.
Theo TS. Nguyễn Đức Thành, Giám đốc VEPR, tốc độ phát triển mạnh mẽ của công nghiệp và kinh tế Trung Quốc đã tạo ra một nhu cầu lớn trên quy mô toàn cầu về tài nguyên, nhiên liệu, hàng hóa trung gian.
Điều này gián tiếp làm thay đổi khuynh hướng sản xuất của nhiều nước trên thế giới, khiến một số nước bị hấp dẫn bởi việc xuất khẩu tài nguyên, hàng hóa thô - sơ chế sang Trung Quốc, do đó nguồn lực bị rút khỏi khu vực sản xuất công nghiệp, khiến đất nước mất dần khả năng cạnh tranh trong dài hạn.
Cơ chế phức tạp này kết thúc bằng việc các quốc gia giàu tài nguyên dần phân ly khỏi quỹ đạo công nghiệp hóa truyền thống, để rồi lệ thuộc vào việc xuất khẩu tài nguyên hoặc các sản phẩm sơ chế trung gian.
Hàng Trung Quốc tràn ngập thị trường, bủa vây người tiêu dùng đang trở thành nỗi lo ngại của người dân. Vì thế cơ quan nhà nước phải có thông tin, nhận diện những mặt hàng độc hại, độc hại như thế nào và tuyên truyền cho người dân biết; xây dựng hàng rào kỹ thuật thương mại nghiêm ngặt. Hiệp hội doanh nghiệp cần lưu ý các doanh nghiệp không tiếp tay cho việc buôn bán hàng lậu, hàng giả, hàng độc hại. Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng cần có những chương trình thiết thực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Phải có sự kiểm tra, kiểm soát, xử lý làm gương.
TS. Nguyễn Minh Phong, Chuyên gia kinh tế
Diễn biến này được biết đến như là vòng xoáy "giải công nghiệp hóa" trong bối cảnh mới, hay còn được gọi là "lời nguyền tài nguyên mới". Thông qua việc xem xét số liệu thương mại giữa Việt Nam với Trung Quốc, TS. Nguyễn Đức Thành cho rằng hiệu ứng "giải công nghiệp hóa" Trung Quốc tạo ra đối với Việt Nam thông qua thương mại. Dưới tác động của sự hình thành ACFTA, hiệu ứng này trở nên rõ nét hơn do ACFTA không có các trở ngại về xuất khẩu nông sản. Bởi lẽ, Trung Quốc và ASEAN đã loại bỏ thuế suất đối với hơn 9.000 nhóm hàng. Điều này tạo ra luồng dịch chuyển hàng hóa thương mại với quy mô lớn và không trở ngại.
Trên thực tế, bản chất của thuật ngữ "giải công nghiệp hóa" không mới, nó chính là bẫy tự do hóa thương mại - vốn đã được nhiều chuyên gia cảnh báo. TS. Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, giải thích gọi là “bẫy” bởi nếu thuần túy tự do hóa thương mại, nó chỉ phát huy lợi thế so sánh tĩnh vốn có của một nền kinh tế, đó là lao động giá rẻ, là khai thác tài nguyên. Với sự trỗi dậy của Trung Quốc và với xu thế hội nhập mạnh mẽ hơn sẽ làm tăng nguy cơ bẫy tự do hóa thương mại.
Trong số những hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Trung Quốc, các hàng hóa mang tính tài nguyên thô và sơ chế (chiếm 1/2 hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc) vẫn chiếm ưu thế nổi trội, như: dầu thô, cao su, thủy sản, rau quả, hạt điều, than đá, dệt may, máy tính và linh kiện, đồ gỗ.
Trong khi đó, hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc chủ yếu là hàng tinh chế, với tỷ trọng lên tới 85%. Đó chủ yếu là hàng công nghiệp chế tạo, thiết bị linh kiện. Mặc dù có sự cải thiện về xuất khẩu hàng hóa như máy vi tính và linh kiện, điện thoại di động và linh kiện sang Trung Quốc, nhưng đa phần là xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chứ không phải của doanh nghiệp trong nước.
Đến nay, lợi thế so sánh của hàng xuất khẩu Việt Nam về tổng thể vẫn tập trung vào các ngành có hàm lượng kỹ thuật thấp và các hàng hóa nông sản. Thực tế này khiến nhiều chuyên gia nhận định “giải công nghiệp hóa” ở Việt Nam sẽ diễn ra sớm hơn so với dự tính. Nếu đúng vậy, đây sẽ là một đe dọa thực sự cho nền kinh tế.
Để tránh việc bị khóa chặt vào "giải công nghiệp hóa", TS. Nguyễn Đức Thành đề xuất Việt Nam cần chủ động cải thiện cơ cấu thương mại, đồng thời có các chính sách thích hợp hỗ trợ khu vực công nghiệp chế tạo. Để thực hiện điều này cần có các giải pháp ngắn hạn, trung hạn và các giải pháp dài hạn. Các giải pháp ngắn - trung hạn bao gồm việc điều chỉnh tỷ giá VNĐ/USD; thiết lập các hàng rào kỹ thuật đối với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc; đầu tư cho công nghiệp chế biến nông sản.
Còn nhóm các giải pháp dài hạn là phối hợp xây dựng các ngành công nghiệp phù hợp; phát triển cụm liên kết ngành để cải thiện tình hình công nghiệp phụ trợ; xây dựng các chương trình đào tạo nghề để nâng cao chất lượng lao động.