Chính sách phân bổ ngân sách nhà nước: Một số bài học rút ra từ ngân sách năm 2017
Chính sách phân bổ ngân sách nhà nước là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng của Nhà nước, qua đó thiết lập cơ chế vận hành, phân chia nguồn lực tài chính theo những nguyên tắc, tiêu chí, căn cứ, định mức và phương pháp tính toán nhất định. Mục tiêu của chính sách phân bổ ngân sách là nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính cho các cơ quan, tổ chức hoàn thành nhiệm vụ được giao, giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa các vùng, miền.
Thứ ba, đánh giá tình hình chi NSNN năm hiện hành chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả trong phạm vi dự toán được Quốc hội quyết định.
Qua báo cáo kết quả của Kiểm toán Nhà nước cho thấy, chi NSNN còn diễn ra tình trạng lãng phí, phô trương hình thức hiệu quả chưa cao. Đối với chi đầu tư phát triển, việc triển khai thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn còn lúng túng, phân bổ và giao kế hoạch chậm, do thực hiện các Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Bảo vệ môi trường… chưa đồng bộ, có quy định mâu thuẫn lẫn nhau. Do đó, cần chú trọng công tác phân bổ và giao kế hoạch vốn đầu tư, giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch để triển khai các công trình, dự án, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Đối với chi thường xuyên, cần chú trọng tiết kiệm, đảm bảo chỉ tăng 1,3% so với dự toán nhưng vẫn đáp ứng được các yêu cầu triển khai nhiệm vụ, thực hiện các chính sách, chế độ đã ban hành, thực hiện chính sách đặc thù cho vùng dân tộc thiểu số và dân tộc rất ít người...
Từ việc đánh giá tình hình chi NSNN, tiến hành phân bổ dự toán chi thường xuyên theo các tiêu chí, định mức phân bổ được quy định tại Nghị quyết số 266/UBTVQH ngày 4/10/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quyết định số 46/QĐ-TTg ngày 19/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ và khả năng của NSNN. Căn cứ vào số lượng biên chế, giao dự toán chi lương đi đôi với giao biên chế; thực hiện các chính sách, chế độ đã ban hành để đảm bảo nguồn lực cho các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp trên cơ sở Đề án đối mới các đơn vị sự nghiệp công lập, giảm sự phụ thuộc vào NSNN. Phân bổ dự toán chi đầu tư phát triển theo các tiêu chí, định mức phân bổ được quy định tại Nghị quyết số 1023/UBTVQH ngày 28/8/2015 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quyết định số 40/QĐ-TTg ngày 14/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ và khả năng của NSNN, trong đó chú trọng ưu tiên về vốn đối ứng ODA, dự án hợp tác công - tư (PPP), dự án chuyển tiếp dở dang kéo dài thuộc Kế hoạch đầu tư công trung hạn; hạn chế dự án mới khởi công; nâng cao hiệu quả đầu tư theo hướng giảm dần hệ số ICOR.
Để khắc phục những bất hợp lý trong phân bổ chi NSNN hiện nay, cần đổi mới căn bản công tác quản lý NSNN theo kết quả thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong trung, dài hạn và hằng năm; Nâng cao hiệu quả công tác lập ngân sách, chấp hành kiểm toán, quyết toán, giám sát việc thực hiện NSNN; Trao quyền tự chủ đi đôi với trách nhiệm giải trình đối với các đơn vị sử dụng ngân sách.
Thứ tư, bảo đảm cân đối NSNN và duy trì bội chi NSNN ở mức thấp, giảm mức vay của NSNN. Thực tế triển khai thực hiện Luật NSNN năm 2015 (có hiệu lực từ năm ngân sách 2017) cho thấy, sự mở rộng phạm vi bội chi NSNN gồm bội chi ngân sách trung ương và bội chi ngân sách địa phương cấp tỉnh đã tạo ra cơ hội để các địa phương thu hút nguồn vốn đầu tư cho phát triển.
Đồng thời, trong công tác hạch toán, kế toán, cân đối NSNN đã loại trừ chi trả nợ gốc trong Bảng cân đối NSNN để phản ánh đúng thực trạng cân đối NSNN phù hợp với thông lệ quốc tế, nên bội chi NSNN chỉ hạch toán phần chi trả nợ lãi nên số bội chi NSNN đã giảm dần (năm 2017: 3,5% GDP và có xu hướng giảm dần đến năm 2020 dưới 4% GDP).
Việc thực hiện mục tiêu siết chặt việc kiểm soát bội chi (cả bội chi ngân sách trung ương và bội chi ngân sách địa phương) bao gồm cả việc kiểm soát giải ngân vốn ODA vì theo nhiều năm, số vốn giải ngân ODA thường có phát sinh lớn hơn so với dự toán. Đồng thời, xem xét về tổng mức vay của NSNN (bao gồm vay để bù đắp bội chi và vay để trả nợ gốc) để có biện pháp điều chỉnh kịp thời, giữ mức bội chi trong phạm vi dự toán được Quốc hội quyết định, giữ mức trần nợ công dưới 65% GDP.
Về phía Nhà nước, cần tập trung cơ cấu lại thu, chi NSNN theo hướng tăng tỷ trọng chi đầu tư, giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên gắn với đổi mới mạnh mẽ khu vực sự nghiệp công lập theo cơ chế tự chủ và tinh giản bộ máy, biên chế, thực hiện cải cách tiền lương. Thực hiện chi trong phạm vi dự toán được giao; Đẩy mạnh thực hiện khoán chi và tiền tệ hóa, đưa vào thu nhập một số chính sách, chế độ theo tiêu chuẩn, định mức chi. Thực hiện nghiêm nguyên tắc vay bù đắp bội chi NSNN chỉ được sử dụng cho đầu tư phát triển, không sử dụng cho chi thường xuyên, từng bước tăng tích lũy cho đầu tư phát triển và trả nợ.
Bên cạnh đó, xây dựng và triển khai Kế hoạch tài chính trung hạn gắn với Kế hoạch đầu tư công trung hạn trong cùng thời kỳ. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, đề cao trách nhiệm giải trình về NSNN của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Bên cạnh đó, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục, tạo sự thống nhất nhận thức trong toàn xã hội và cộng đồng DN về chấp hành nghĩa vụ nộp thuế, thực hành tiết kiệm và phòng, chống tham nhũng, lãng phí nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong cả hệ thống chính trị.
Thứ năm, quản lý NSNN chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả trên cơ sở chống thất thu, trốn thuế, giảm tỷ lệ nợ đọng thuế dưới mức 5% tổng thu NSNN. Không ban hành chính sách làm giảm thu NSNN để bảo đảm tính ổn định của chính sách thu và tỷ lệ huy động GDP vào NSNN. Cân nhắc việc điều chỉnh tăng/giảm thuế suất ở mức hợp lý trong quá trình sửa đổi, bổ sung một số chính sách thuế, nhất là thuế giá trị gia tăng; tiếp tục rà soát các sắc thuế để bảo đảm công bằng, chú trọng hiệu quả thu thuế. Không bố trí kinh phí mua sắm trang thiết bị đắt tiền; giảm chi khánh tiết, phô trương hình thức; hạn chế mua sắm xe công; hạn chế bổ sung chi ngoài dự toán…
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về bố trí vốn chuẩn bị đầu tư các công trình quan trọng quốc gia như: Đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông: Đoạn Cao Bồ (Nam Định) - Bãi Vọt (Hà Tĩnh), Dầu Giây (Đồng Nai) – Nha Trang (Khánh Hòa), Trung Lương – Cần Thơ; giải phóng mặt bằng Sân bay Long Thành – Đồng Nai…; Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia (xây dựng nông thôn mới; Giảm nghèo bền vững)… cần đẩy mạnh tiến trình cơ cấu lại đầu tư công và nâng cao hiệu quả đầu tư công.
Thứ sáu, đẩy mạnh công khai NSNN. Đây là một nguyên tắc trong quản lý NSNN, thể hiện ý thức trách nhiệm của Nhà nước trước công dân, đồng thời tạo điều kiện cho sự giám sát của người dân đối với các hoạt động NSNN. Công khai ngân sách là việc cung cấp thông tin một cách rõ ràng, đáng tin cậy, dễ hiểu và kịp thời về ngân sách theo các nội dung được pháp luật quy định. Đối tượng phải thực hiện công khai ngân sách gồm: (i) Các cấp ngân sách; (ii) Đơn vị dự toán ngân sách; (iii) Tổ chức được ngân sách hỗ trợ; (iv) Chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản có sử dụng vốn ngân sách. Việc công khai ngân sách được ngoại trừ đối với các vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh, bí mật quốc gia.
Các đối tượng có trách nhiệm phải thực hiện công khai ngân sách theo quy định, nếu không thực hiện công khai đầy đủ, đúng hạn sẽ bị xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật. Hình thức công khai bao gồm: Công bố tại kỳ họp, niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, đơn vị; phát hành ấn phẩm; thông báo bằng văn bản đến các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nội dung công khai NSNN phải bảo đảm đầy đủ theo các chỉ tiêu, biểu mẫu do Bộ Tài chính quy định tại Thông tư số 343/2016/TT-BTC ngày 30/12/2016 của Bộ Tài chính (hướng dẫn thực hiện công khai NSNN đối với các cấp ngân sách).
Theo đó, tài liệu công khai NSNN bao gồm: (i) Số liệu, thuyết minh dự toán NSNN trình Quốc hội và trình HĐND (chậm nhất là 5 ngày, kể từ ngày Chính phủ gửi đại biểu Quốc hội, UBND gửi đại biểu HĐND); (ii) Số liệu, thuyết minh dự toán NSNN được Quốc hội và trình HĐND quyết định (chậm nhất 30 ngày, kể từ ngày văn bản được ban hành); (iii) Số liệu, thuyết minh tình hình thực hiện thu, chi NSNN hàng quý, 6 tháng (chậm nhất 15 ngày, kể từ ngày kết thúc quý và 6 tháng); (iv) Số liệu, thuyết minh quyết toán NSNN được Quốc hội và trình HĐND quyết định (chậm nhất 30 ngày kể từ ngày văn bản được ban hành); (v) Kết quả thực hiện các kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước (chậm nhất 30 ngày, kể từ ngày văn bản được ban hành). Ngoài ra, các đơn vị dự toán ngân sách, các tổ chức được NSNN hỗ trợ cũng phải thực hiện công khai các khoản đóng góp, cơ sở xác định mức hỗ trợ của NSNN…
Bên cạnh đó, cần công khai đầy đủ các thủ tục NSNN, bao gồm các quy trình, thủ tục kê khai, thu, nộp, miễn giảm, gia hạn, hoàn lại các khoản thu; tạm ứng, cấp phát, thanh toán NSNN. Thủ tục hành chính của Kho bạc Nhà nước bao gồm thủ tục mở và sử dụng tài khoản tại Kho bạc, thu nộp các khoản thu NSNN, kiểm soát thanh toán các khoản chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước các cấp.
Công khai NSNN là bài học quan trọng trong quản lý và giám sát NSNN của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Luật NSNN năm 2015 đã có bước tiến đáng kể về công khai ngân sách (so với Luật NSNN năm 1996 và Luật NSNN năm 2002), trong đó đã đưa ra khá đầy đủ các quy định về nội dung, thủ tục, thời hạn, đối tượng và tài liệu công khai, nhằm phát huy sự phản biện của người dân cho các cơ quan dân cử khi quyết định dự toán, theo dõi và giám sát các dự án đầu tư xây dựng cơ bản có sử dụng vốn NSNN theo quy định của Luật NSNN năm 2015, Luật Đầu tư công năm 2014 và các văn bản pháp luật có liên quan.
Tài liệu tham khảo:
1. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 (có hiệu lực 1/1/2014);
2. Luật NSNN năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2017);
3. Luật Đầu tư công năm 2014 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2015);
4. Nghị quyết số 07 -NQ/TƯ ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về cơ cấu lại NSNN và nợ công;
5. Các báo cáo NSNN của Chính phủ trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4.