Chính sách tài khoá cần đóng vai trò chủ đạo trong việc hỗ trợ nền kinh tế phục hồi

Minh Ánh

Ngày 20/5/2022, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức Hội thảo công bố Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam 2022. Bên cạnh việc đánh giá triển vọng kinh tế Việt Nam 2022, Báo cáo của VEPR cũng đưa ra các đề xuất chính sách để phục hồi tăng trưởng kinh tế, trong đó, chính sách tài khoá được đánh giá cần đóng vai trò chủ đạo trong việc hỗ trợ nền kinh tế phục hồi.

Hội thảo Công bố Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam 2022.
Hội thảo Công bố Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam 2022.

Tăng trưởng kinh tế cả năm 2022 dự báo ở mức 5,4 – 6,1%

Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam 2022 nêu rõ, sau những tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, năm 2021, kinh tế thế giới đã phục hồi dù tốc độ vẫn còn khá chậm. Động lực chính của tăng trưởng kinh tế năm 2021 chính là tiêu dùng và thương mại tăng trưởng mạnh hơn dự kiến cho dù lòng tin của người tiêu dùng ở hầu hết các nước vẫn chưa hoàn toàn phục hồi.

Năm 2021, lạm phát bắt đầu trở thành hiện tượng toàn cầu. Thị trường tài chính biến động mạnh, các đồng tiền chủ chốt biến động theo các hướng khác nhau. Nhiều chính sách hỗ trợ kinh tế được thực thi ở các quốc gia nhưng đại dịch cũng làm cho gánh nặng nợ tăng dần.

Dự báo, triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2022 tăng trưởng 3,6%. Tuy nhiên, môi trường địa kinh tế chính trị toàn cầu năm 2022 cũng được dự báo là bất ổn hơn gây ra những khó khăn mới cho nền kinh tế thế giới.

Với Việt Nam, năm 2021, đại dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp. Các biện pháp giãn cách xã hội nghiêm ngặt và kéo dài để phòng, chống dịch bệnh, nhất là tại các trung tâm kinh tế lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và các địa phương lân cận đã dẫn đến những tổn thất kinh tế - xã hội nặng nề.

Theo Báo cáo, Kinh tế Việt Nam diễn biến tương đối tích cực trong nửa đầu năm 2021. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế trong quý III/2021 đã sụt giảm nghiêm trọng. Dịch vụ vẫn là khu vực chịu tác động nặng nề và nghiêm trọng nhất. Tiêu dùng năm 2021 giảm thấp do tác động của các biện pháp giãn cách nghiêm ngặt và giảm thu nhập do mất việc, thiếu việc làm và giảm lương.

Đại dịch COVID-19 cũng đã làm giảm đáng kể dòng vốn đầu tư vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Xuất khẩu trở thành một trong những trụ cột kéo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2021. Áp lực gia tăng lạm phát đang gia tăng. Chính sách tiền tệ tiếp tục duy trì trạng thái nới lỏng để hỗ trợ nền kinh tế trong giai đoạn khó khăn kéo dài. Quy mô các gói hỗ trợ tăng lên đáng kể so với năm 2020-2020, được đánh giá là phù hợp và cần thiết.

Trái ngược với các hoạt động kinh doanh truyền thống bị ảnh hưởng nặng nề, đại dịch COVID-19 không những không làm suy giảm nền kinh tế số mà còn tạo cả áp lực lẫn động lực thúc đẩy doanh nghiệp và chính phủ chuyển đổi. Quá trình chuyển đổi số ở Việt Nam diễn ra mạnh mẽ ở nhiều ngành như y tế, điện tử viễn thông, công nghệ thông tin, thương mại điện tử, logistic hay lĩnh vực tài chính.

Đặc biệt, chuyển đổi số tronng lĩnh vực dịch vụ không những giúp khu vực kinh tế này vượt qua khó khăn gây ra bởi đại dịch COVID-19 mà còn là yếu tố nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.

Trên cơ sở phân tích về các xu hướng diễn biến chính của kinh tế thế giới cùng những đánh giá rủi ro và thuận lợi trên thị trường quốc tế cũng như trong nước, Báo cáo nhận định, với kịch bản lạc quan nhất, kinh tế vĩ mô Việt Nam có những bước phục hồi nhanh chóng sau khi trở về “trạng thái bình thường mới”. Tăng trưởng kinh tế cả năm 2022 được dự báo ở mức 5,4 – 6,1%.

Với kịch bản xấu nhất, lạm phát tăng cao và nền kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng bởi cuộc chiến Nga - Ukcraina, Việt Nam phải nỗ lực rất nhiều để có thể ổn định kinh tế vĩ mô và là điểm đến thu hút FDI. Xu hướng chuyển đổi số trở thành động lực và cơ hội tăng trưởng cho không chỉ ngành dịch vụ mà cả nền kinh tế.

Chính sách tài khoá cần đóng vai trò chủ đạo trong việc hỗ trợ nền kinh tế phục hồi

Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam 2022 đề xuất các chính sách để phục hồi tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn gồm:

Thứ nhất, xác định nhiệm vụ trọng tâm và hàng đầu trong thời gian tới là “ổn định kinh tế vĩ mô”, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà cả về chính trị, xã hội để từ đó phục hồi nền kinh tế.

Thứ hai, trong ngắn hạn, các chính sách cần đảm bảo linh hoạt để có thể giúp nền kinh tế phản ứng nhanh trước những biến động nhanh chóng của nền kinh tế thế giới. Các chính sách tài khoá cần đóng vai trò chủ đạo trong việc hỗ trợ nền kinh tế phục hồi.

Báo cáo đề xuất, Chính phủ có thể gia tăng hỗ trợ cho nền kinh tế, mở rộng chi tiêu để ưu tiên cho tăng trưởng. Cần tiếp tục triển khai hiệu quả hơn các gói hỗ trợ cho nền kinh tế, hướng vào các ngành có tác động tràn tích cực. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cần đúng đối tượng và thiết thực hơn.

Hiện nay, các hỗ trợ thường thông qua giảm mức thu các loại phí, lệ phí và đang được thực hiện một cách dàn trải. Do vậy, Chính phủ cần thu hẹp đối tượng thụ hưởng, hướng vào các doanh nghiệp có năng lực và khả năng lan toả cao và tập trung vào hai khó khăn lớn với cộng đồng doanh nghiệp hiện nay là đứt gãy chuỗi cung ứng và chi phí sản xuất gia tăng.

Các khoản chi hỗ trợ chính là đầu tư cho tương lai để đạt mục tiêu tăng trưởng trong dài hạn nên cần hỗ trợ tối đa trong khả năng cho phép của khuôn khổ tài khóa trung hạn nhằm vừa hỗ trợ phục hồi kinh tế vừa duy trì lòng tin của công chúng vào khuôn khổ chính sách tài khóa.

Thứ ba, song song với việc đẩy mạnh chi tiêu, cần tăng cường quản lý và sử dụng hiệu quả đầu tư công, nghiên cứu đổi mới cơ chế quản lý, phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi ngân sách. Hoàn thiện cơ chế về quản lý ngân sách, quản lý nợ công, tài sản công, đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước theo hướng công khai, minh bạch và tăng trách nhiệm giải trình…

Thứ tư, Việt Nam cần đặc biệt chú ý về nguy cơ nhập khẩu lạm phát từ bên ngoài. Lạm phát thấp hiện nay ở trong nước một phần vì cầu tiêu dùng thấp. Lạm phát do chi phí đẩy cần sớm được Chính phủ đánh giá chính thức để có biện pháp kiểm soát giúp hạn chế tác động tiêu cực tới người tiêu dùng trong nước.

Thứ năm, chính sách tiền tệ cần duy trì trạng thái “thích ứng” với hiện trạng của nền kinh tế, tiếp tục cân bằng giữa lạm phát và rủi ro tài chính với hỗ trợ phục hồi kinh tế, khơi thông sự luân chuyển của dòng vốn.

Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển thị trường trái phiếu, thị trường chứng khoán nhưng cần công khai minh bạch thông tin và giao dịch và đẩy mạnh sự chuyên nghiệp của các chủ thể tham gia thị trường. 

Thứ sáu, trước nguy cơ dòng tiền trong nền kinh tế có thể chưa đi vào sản xuất mà chảy vào các thị trường tài sản, để dòng vốn thật có thể quay lại vào đầu tư sản xuất - kinh doanh thì việc nhất quán chính sách bình thường mới, mở cửa và sống chung với COVID-19 vẫn là điều kiện quan trọng nhất.

Trong trung hạn, Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam 2022 khuyến nghị cần đẩy mạnh an ninh xã hội, an ninh năng lượng, thúc đẩy sự linh hoạt của chính sách tiền tệ và tăng khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng. Cuộc khủng hoảng năng lượng sẽ có tác động lan tỏa đến Việt Nam, gia tăng áp lực lạm phát và là cú sốc mới cho chuỗi cung ứng toàn cầu. Do đó, cần phải nghiên cứu đánh giá tác động của các yếu tố này để kịp thời điều chỉnh chính sách phù hợp giúp đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.

Trong dài hạn, cần tiếp tục tái cấu trúc nền kinh tế, đẩy mạnh nâng cao tăng năng suất - cốt lõi của năng lực cạnh tranh và nâng cấp sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Thương mại vẫn là động lực quan trọng để Việt Nam tăng trưởng trong thời gian tới. Đối với đầu tư, Việt Nam cần nghiên cứu kỹ những cơ hội và thách thức cũng như xu hướng của dòng FDI toàn cầu, để điều chỉnh chiến lược cho phù hợp. Bên cạnh đó, tiếp tục có những cải cách đột phá về thể chế nhằm thúc đẩy hoàn thiện hơn nữa môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh bình đẳng, tiến tới nền kinh tế thị trường đầy đủ.