Chuyển đổi tổ chức khoa học và công nghệ công lập sang mô hình doanh nghiệp
Trên cả nước, hiện có 04 tổ chức khoa học và công nghệ công lập chuyển đổi thành công sang mô hình doanh nghiệp; tỷ lệ các tổ chức khoa học và công nghệ công lập có mức độ tự chủ tài chính cao còn hạn chế.
Bài viết làm rõ thực trạng chuyển đổi tổ chức khoa học và công nghệ công lập sang mô hình doanh nghiệp khoa học và công nghệ, nhận diện các vấn đề đặt ra (đặc biệt về mặt chính sách), từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy quá trình chuyển đổi tổ chức khoa học và công nghệ công lập sang mô hình doanh nghiệp.
Thực trạng chuyển đổi tổ chức khoa học và công nghệ thành doanh nghiệp
Hội nghị lần thứ VI, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL), đã đưa ra một số giải pháp trọng tâm liên quan đến tổ chức khoa học công nghệ (KHCN). Theo đó, Nghị quyết chỉ rõ, thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức KHCN công lập, đồng thời từng bước chuyển các tổ chức KHCN công lập, các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp (DN) dưới các hình thức phù hợp.
Trước đó, cùng với chủ trương nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của các tổ chức KHCN, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển KHCN giai đoạn 2011 – 2020, trong đó đưa ra cơ chế hoạt động cho tổ chức KHCN công lập với một số nội dung chính như “Chuyển cơ chế cấp phát tài chính để thực hiện các nhiệm vụ KHCN sang cơ chế quỹ”, “Chuyển các tổ chức KHCN công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật”.
Mặc dù, chủ trương chuyển đổi tổ chức KHCN công lập thành DN đã được ban hành từ khá sớm, nhưng quá trình chuyển đổi các tổ chức KHCN công lập sang mô hình DN ở Việt Nam diễn ra rất chậm. Tính đến tháng 6/2019, chỉ có 04 tổ chức KHCN công lập đã thực hiện chuyển đổi thành công sang mô hình DN KHCN, các đơn vị này thuộc Bộ Công Thương và đều tập trung ở Hà Nội, bao gồm: Công ty TNHH một thành viên Viện Kinh tế - Kỹ thuật thuốc lá; Công ty TNHH một thành viên Viện Máy và Dụng cụ công nghiệp; Công ty TNHH Viện Công nghiệp Giấy và Xenluylo; Viện Nghiên cứu Dệt May – Công ty cổ phần.
Quá trình chuyển đổi tổ chức KHCN công lập sang mô hình DN cho thấy nổi lên một số đặc điểm sau: Các DN sau chuyển đổi vẫn chú trọng nghiên cứu khoa học; Các tổ chức KHCN công lập sau khi chuyển đổi thành DN đã chú trọng nghiên cứu, sản xuất những sản phẩm có lợi thế và khả năng cạnh tranh trên thị trường; Các tổ chức KHCN công lập sau khi chuyển đổi thành DN đã được tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân lực KHCN. Việc áp dụng các quy định của Luật DN đã góp phần nâng cao năng lực quản lý kinh tế cho các cán bộ của các tổ chức này, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của DN.
Bên cạnh đó, thực hiện chủ trương chung về đổi mới mô hình tổ chức, hoạt động của KHCN công lập, hướng đến chuyển đổi tổ chức KHCN công lập sang mô hình DN, hầu hết các tổ chức KHCN công lập tại Việt Nam đã xây dựng kế hoạch tự chủ hoặc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính. Tuy nhiên, các tổ chức KHCN mới thực hiện tự chủ chi thường xuyên mà chưa có tổ chức KHCN nào tự chủ chi đầu tư, với tỷ lệ tự chủ chi thường xuyên tối thiểu đạt 20% và có những tổ chức tự chủ 100% chi thường xuyên.
Số lượng các tổ chức KHCN công lập tự chủ chi thường xuyên cao còn khá hạn chế, số lượng các tổ chức KHCN công lập tự chủ 100% chi thường xuyên chỉ chiếm khoảng 50%. Một số thành phố lớn điển hình là có TP. Hồ Chí Minh có số lượng tổ chức KHCN lớn nhưng việc xây dựng cơ chế tự chủ còn chậm trễ, (trong 70 tổ chức KHCN công lập mới có 14 tổ chức thuộc diện phải chuyển đổi sang hình thức tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Trong đó, chỉ có 01 tổ chức KHCN tự chủ 100% chi thường xuyên, còn 13 tổ chức còn lại đang xây dựng phương án tự chủ hoặc đang chờ được phê duyệt phương án tự chủ). Các tổ chức xây dựng và thực hiện cơ chế tự chủ tài chính hầu hết là các tổ chức dịch vụ KHCN, trong đó các tổ chức KHCN đã tự chủ toàn bộ chi thường xuyên hầu hết là các tổ chức cung cấp dịch vụ gắn với thị trường sản phẩm đầu ra phong phú như các sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, các sản phẩm dịch vụ liên quan đến kiểm định, tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng…
Một số vấn đề đặt ra trong quá trình chuyển đổi
Việc chuyển đổi các tổ chức KHCN công lập sang mô hình DN còn một số vấn đề đặt ra như:
Thứ nhất, nhiều tổ chức KHCN công lập có chức năng, nhiệm vụ không phù hợp với việc thực hiện cơ chế tự chủ, do đó, khó tạo nền tảng cho việc chuyển đổi sang mô hình DN.
Thực tế cho thấy, hầu hết các đơn vị đang thực hiện phương án tự chủ với mức độ tự chủ cao đều là các tổ chức dịch vụ KHCN, tức là sản phẩm có khả năng thương mại hóa. Đặc biệt, các tổ chức thực hiện tự chủ toàn bộ chi thường xuyên là các tổ chức cung cấp dịch vụ KHCN liên quan đến kiểm định, tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, tức độ thương mại hóa rất cao. Do đó, đối với nhiều tổ chức KHCN, đặc biệt là các tổ chức nghiên cứu phát triển, với đặc thù nhiều nhiệm vụ được giao hiện nay là các nhiệm vụ cần bảo mật thông tin, do đó các sản phẩm không thương mại hóa được dẫn đến khó có thể thực hiện cơ chế tự chủ. Trong khi đó, một số tổ chức KHCN đã tự chủ một phần hoặc toàn bộ chi thường xuyên thường gặp khó khăn về nguồn thu hoặc khó khăn về trụ sở làm việc (trong trường hợp tự chủ cả chi đầu tư).
Mặc dù, đã tự chủ một phần hoặc toàn bộ chi thường xuyên nhưng phần lớn nguồn thu của các tổ chức KHCN công lập vẫn xuất phát từ việc thực hiện các nhiệm vụ KHCN do các cấp có thẩm quyền giao, nguồn thu dịch vụ chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Các tổ chức KHCN công lập thực hiện hoạt động nghiên cứu và ứng dụng còn thiếu năng lực tiếp cận thị trường và nghiên cứu phát triển các hoạt động dịch vụ có thu. Kết quả nghiên cứu của tổ chức KHCN công lập nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường và DN.
Số lượng kết quả nghiên cứu được thương mại hóa còn rất ít, vì vậy các tổ chức này không có nguồn thu hoặc nguồn thu rất hạn chế để có thể thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Ngoài ra, một khó khăn đối với các tổ chức KHCN tự chủ chi đầu tư hoặc chuyển đổi thành DN là không có trụ sở làm việc hoặc phải đóng tiền thuế đất, tiền sử dụng đất đối với diện tích trụ sở làm việc, đây là một khoản kinh phí khá lớn, giảm động lực chuyển đổi thành DN của đơn vị.
Thứ hai, cơ chế chính sách liên quan đến việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính còn thiếu động bộ, chưa tạo được động lực thúc đẩy các tổ chức KHCN công lập thực hiện cơ chế tự chủ.
Tính đến tháng 6/2019, có 04 tổ chức khoa học công nghệ công lập đã thực hiện chuyển đổi thành công sang mô hình doanh nghiệp khoa học công nghệ, thuộc Bộ Công Thương và tập trung ở Hà Nội, gồm: Công ty TNHH một thành viên Viện Kinh tế - Kỹ thuật thuốc lá; Công ty TNHH một thành viên Viện Máy và Dụng cụ công nghiệp; Công ty TNHH Viện Công nghiệp Giấy và Xenluylo; Viện Nghiên cứu Dệt May – Công ty cổ phần.
Thực tế cho thấy, khi thực hiện cơ chế tự chủ của tổ chức KHCN công lập phát sinh một số vướng mắc từ sự thiếu đồng bộ, xung đột của các quy định trong hệ thống văn bản pháp luật như: giữa quy định về tự chủ trong sử dụng đất để góp vốn, liên doanh, liên kết, sản xuất kinh doanh, thế chấp vay vốn ngân hàng với Luật Đất đai; giữa quy định tự chủ về nhân lực của tổ chức KHCN chưa tự bảo đảm chi thường xuyên với Luật Viên chức và Nghị định số 41/2012/NĐ-CP; giữa quy định bổ nhiệm, thuê đảm nhiệm chức danh lãnh đạo tổ chức KHCN là người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài với Luật Cán bộ, công chức...
Ngoài ra, một số chính sách về ưu đãi thuế, chính sách sử dụng tài sản, chính sách liên quan đến trích lập quỹ bổ sung thu nhập, cải cách tiền lương… chưa tạo được động lực chuyển đổi cho tổ chức KHCN, gây lãng phí nguồn lực, cũng như động lực đối với người lao động tại các tổ chức đó. Theo Nghị định số 54/2016/NĐ-CP (Khoản 1, Điều 5), các tổ chức KHCN công lập nếu vận dụng cơ chế tài chính như DN sẽ được hưởng chính sách ưu đãi thuế như đối với DN thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (Áp dụng thuế suất 10% trong vòng 15 năm, miễn thuế tối đa 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá 9 năm tiếp theo). Như vậy, chính sách ưu đãi thuế này chỉ dành cho các tổ chức KHCN tự chủ cả chi đầu tư và chi thường xuyên. Trong khi đó, chưa có chính sách ưu đãi thuế đối với tổ chức KHCN mới tự chủ chi một phần hoặc toàn bộ chi thường xuyên .
Đối với chính sách sử dụng tài sản, trước đây tài sản cố định mà đơn vị sử dụng phải tính hao mòn, nhưng theo quy định hiện hành tài sản của các tổ chức KHCN công lập thực hiện tính khấu hao. Tuy nhiên, một khó khăn đặt ra đối với các tổ chức KHCN công lập tự chủ là tài sản thường được sử dụng cho cả hai mục đích quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ, nhưng lại chưa có hướng dẫn xây dựng đề án sử dụng tài sản đối với các trường hợp này, cách thức xác định tỷ lệ sử dụng cho mục đích quản lý nhà nước, tỷ lệ sử dụng cho mục đích kinh doanh, nếu khấu hao theo 100% giá trị tài sản thì sẽ ảnh hưởng bất lợi đối với các tổ chức.
Đối với chính sách giới hạn trích lập Quỹ bổ sung thu nhập, hiện nay theo Nghị định số 54/2016/NĐ-CP, với các đơn vị tự chủ toàn bộ chi thường xuyên thì mức trích lập quỹ bổ sung thu nhập là tối đa không quá 3 lần quỹ tiền lương ngạch, bậc, hạng chức danh nghề nghiệp, chức vụ và các khoản phụ cấp lương do Nhà nước quy định. Quy định trên thực tế không khuyến khích người lao động.
Bên cạnh đó, quy định trích lập cải cách tiền lương, theo Điểm b, Khoản 2, Điều 8, Nghị định số 54/2016/NĐ-CP, cũng như Điểm a, Khoản 1, Điều 4, Thông tư số 90/2017/TT-BTC quy định về việc chi tiền lương tại các đơn vị tự chủ toàn bộ chi thường xuyên cũng còn tồn tại bất cập. Theo đó, trong trường hợp Nhà nước điều chỉnh tiền lương, thủ trưởng đơn vị tự quyết định mức trích lập từ nguồn thu của đơn vị để thực hiện cải cách tiền lương. Tuy nhiên, tại một số địa phương, theo hướng dẫn của sở tài chính, mức trích lập đối với các đơn vị là 40% nguồn thu. Điều này gây lãng phí nguồn lực tài chính, khi nhu cầu cải cách tiền lương không lớn.
Thêm vào đó, còn có hạn chế trong chính sách giao quyền sử dụng tài sản. Theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP, các đơn vị chuyển sang tự chủ được sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp, tuy nhiên, thực tế cho thấy, tổ chức KHCN tự chủ, song chưa được giao quyền sử dụng tài sản (dù Nghị định 115/2005/NĐ-CP đã đi vào thực tiễn hơn 10 năm qua). Khi tổ chức KHCN công lập không được giao tài sản, sẽ rất ít cơ hội cho DN phát triển do không có tài sản để đảm bảo khi vay vốn mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng hoạt động của đơn vị và trả nợ vay theo quy định. Điều này thể hiện rõ tại Viện nghiên cứu cơ khí Narime.
Thứ ba, việc đăng ký giấy chứng nhận DN KHCN đối với các tổ chức KHCN chuyển đổi còn gặp nhiều khó khăn.
Khác với các DN KHCN thành lập mới, đối với các tổ chức KHCN chuyển đổi, việc xin cấp giấy chứng nhận là DN KHCN thường kéo dài khiến DN không tiếp cận được các chính sách hỗ trợ của Nhà nước áp dụng cho DN KHCN. Điển hình là trường hợp Viện IMI chuyển từ tổ chức KHCN công lập sang mô hình DN từ sớm, tuy nhiên sau gần 5 năm chuyển đổi Viện mới được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận là DN KHCN. Tương tự, đối với Viện Công nghiệp giấy và xenluylo, dù đã được quyết định chuyển sang hoạt động theo mô hình DN nhưng vẫn khó khăn trong việc đăng ký được là DN KHCN do chưa có sản phẩm chủ đạo.
Một phần nguyên nhân của tình trạng trên được xác định là do việc đề nghị cấp giấy chứng nhận DN KHCN cần có xác nhận quyền sử dụng và quyền sở hữu kết quả KHCN. Các DN cũng gặp khó khăn trong việc chứng minh quyền sở hữu hoặc sử dụng kết quả KHCN nếu kết quả KHCN đó do chính DN tự đầu tư bằng nguồn lực (nhân lực, trang thiết bị và kinh phí) của mình.
Thứ tư, các tổ chức KHCN chuyển đổi sang mô hình DN gặp khó khăn về huy động vốn, hạch toán phần vốn nhà nước tại DN KHCN liên quan đến tài sản phòng thí nghiệm, các chính sách liên quan đến quyền sử dụng đất, cổ phần hóa.
Sau khi chuyển sang mô hình DN, nguồn vốn của các tổ chức KHCN này được giao chủ yếu là tài sản cố định, máy móc, thiết bị, phòng thí nghiệm, nhà xưởng… do đó, DN không có vốn lưu động cho công tác nghiên cứu, sản xuất. Đối với tài sản là phòng thí nghiệm, sau khi cổ phần hóa, giá trị tài sản phòng thí nghiệm chiếm tỷ lệ cao trong giá trị thực tế vốn nhà nước tại các tổ chức KHCN đã chuyển đổi (như Viện IMI phần giá trị này chiếm đến 40%). Theo đó, giá trị của tài sản phòng thí nghiệm sẽ phải hạch toán vào giá thành sản xuất mỗi năm. Đây là một khó khăn cho tổ chức KHCN trong những năm đầu chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần. Đối với quyền sử dụng đất, trước khi chuyển sang mô hình DN, các tổ chức KHCN được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất nhưng sau khi chuyển đổi thành DN, đơn vị phải nộp tiền thuê đất hàng năm sử dụng cho hoạt động nghiên cứu khoa học, gây khó khăn cho DN sau chuyển đổi.
Một số kiến nghị, đề xuất
Để thúc đẩy việc chuyển đổi các tổ chức KHCN sang hoạt động theo mô hình DN, cần có sự phối hợp đồng thời giữa việc tăng cường cơ chế tự chủ đối với các tổ chức KHCN công lập với việc đẩy mạnh quá trình chuyển đổi các tổ chức KHCN công lập sang mô hình DN KHCN. Trong đó, một số giải pháp cần được chú trọng gồm:
Một là, xây dựng lộ trình thực hiện cơ chế tự chủ tài chính cho 2 nhóm đối tượng tổ chức KHCN công lập tùy thuộc vào mức độ thương mại hóa sản phẩm, dịch vụ nghiên cứu khoa học của từng tổ chức.
Mục tiêu đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ đã được thể hiện qua các chủ trương, chính sách của Đảng Nhà nước. Tuy nhiên, căn cứ vào tính đặc thù và để tăng tính thực tế và hiệu quả, cần xây dựng lộ trình tự chủ tài chính riêng đối với từng loại hình tổ chức KHCN.
Có thể áp dụng 2 lộ trình cho 2 đối tượng tổ chức KHCN công lập tùy thuộc vào mức độ thương mại hóa sản phẩm, dịch vụ nghiên cứu khoa học của từng tổ chức:
(i) Đối với các tổ chức KHCN nghiên cứu chiến lược (Viện Chiến lược thuộc các bộ, ngành), nên thực hiện cơ chế tự chủ với lộ trình dài hạn và chỉ thực hiện tự chủ một phần với tỷ lệ tự thấp trong giai đoạn đầu. Bởi lẽ, các tổ chức nghiên cứu chiến lược, tham mưu chính sách, xây dựng chiến lược, nhiều nhiệm vụ được giao có yêu cầu bảo mật thông tin cao nên khả năng thương mại hóa sản phẩm đối với những nhiệm vụ KHCN này không cao, thậm chí không thể được thương mại hóa;
(ii) Đối với các tổ chức dịch vụ KHCN, cần xây dựng ngay phương án tự chủ toàn bộ chi thường xuyên và có lộ trình tự chủ chi đầu tư trong trung hạn, sau đó thực hiện chuyển đổi thành DN. Các tổ chức dịch vụ KHCN là các tổ chức mà sản phẩm, dịch vụ KHCN có tính thương mại hóa cao, có khả năng mang lại doanh thu ổn định, do đó cần thực hiện ngay cơ chế tự chủ như chủ động về nhân sự, thực hiện cơ chế giá dịch vụ…
Hai là, xem xét điều chỉnh điều kiện công nhận DN KHCN theo hướng nới lỏng đối với DN thực hiện chuyển đổi từ tổ chức KHCN công lập.
Việc nới lỏng điều kiện cấp giấy chứng nhận DN KHCN sẽ giúp DN sớm ổn định sau chuyển đổi mô hình và tập trung mở rộng, phát triển hoạt động, tránh những trường hợp đã xảy ra đối với số ít DN đã chuyển đổi trước đây, đồng thời tạo niềm tin và động lực cho các đơn vị khác bước vào lộ trình chuyển đổi sang mô hình DN. Điều kiện được cấp giấy chứng nhận DN KHCN cần có xác nhận quyền sử dụng và quyền sở hữu kết quả KHCN, trong khi việc chuyển giao quyền sử dụng kết quả nghiên cứu có sử dụng kinh phí từ NSNN cho các tổ chức chuyển đổi này là khó khả thi.
Vì vậy, đề nghị nới lỏng điều kiện công nhận là DN KHCN đối với DN thực hiện chuyển đổi từ tổ chức KHCN công lập theo hướng sau: Trường hợp kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tạo ra do Nhà nước cấp kinh phí (một phần hoặc toàn bộ) để nghiên cứu hoặc nhận chuyển giao thì DN được quyền sử dụng hợp pháp kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đó để đăng ký chứng nhận DN KHCN mà không phải thực hiện thủ tục giao quyền.
Ba là, thực hiện cơ chế đặc thù trong cổ phần hóa DN KHCN.
Các đơn vị tham gia hoạt động trong lĩnh vực KHCN có tính đặc thù riêng, vì vậy việc chuyển đổi các viện nghiên cứu cần được xem là quá trình chuyển đổi hình thức hoạt động theo mô hình công ty cổ phần. Theo đó, cần có cơ chế riêng, đặc thù để các đơn vị vận dụng, triển khai, không nên áp dụng tương tự cổ phần hóa DN. Cụ thể:
- Cần tăng tỷ lệ cổ phần dành cho cán bộ khoa học, cán bộ chủ chốt. Do tính đặc thù đơn vị nghiên cứu KHCN, nên khi xây dựng và phê duyệt phương án cổ phần hóa, đơn vị cần duy trì tỷ lệ phần vốn nhà nước trong cơ cấu vốn điều lệ của DN từ 36% trở lên; đồng thời, cho phép dành tỷ lệ cổ phần thỏa đáng để bán ưu đãi cho các cán bộ khoa học, cán bộ chủ chốt của viện nghiên cứu, nhằm đảm bảo tỷ lệ cổ phần biểu quyết (gồm cổ phần nhà nước và cổ phần của cán bộ khoa học đạt trên 51% vốn điều lệ), quyết định mô hình, định hướng chiến lược hoạt động nhằm vẫn đảm bảo duy trì được chức năng nghiên cứu khoa học và đào tạo của viện.
- Không tính giá tài sản phòng thí nghiệm khi cổ phần hóa, việc tính giá tài sản phòng thí nghiệm, tài sản kết quả KHCN vào giá trị thực tế phần vốn nhà nước khi cổ phần hóa đã làm gia tăng gánh nặng cho các viện nghiên cứu sau cổ phần hóa. Để giảm gánh nặng này cho DN, đề nghị xem xét khả năng không tính giá tài sản phòng thí nghiệm, tài sản kết quả KHCN vào giá trị thực tế phần vốn nhà nước. Trong trường hợp bắt buộc phải xác định, Chính phủ cho phép DN sau cổ phần hóa được miễn trả cổ tức tương ứng với phần vốn nhà nước từ phòng thí nghiệm trong một khoảng thời gian nhất định.
Bốn là, cần điều chỉnh các quy định ưu đãi thuế đối với DN KHCN. Về thời gian được hưởng ưu đãi thuế, tương tự như quy định về doanh thu được hưởng ưu đãi thuế, quá trình thực hiện cho thấy, sự không thống nhất trong các quy định về thời gian được hưởng ưu đãi thuế (từ khi được cấp GCN DN KHCN hay từ khi cấp Giấy chứng nhận nhưng trừ đi các ưu đãi đã được hưởng trong các năm trước). Do đó, để khuyến khích phát triển DN KHCN cũng cần thống nhất lại về quy định thời gian hưởng ưu đãi thuế, theo hướng DN đủ điều kiện sẽ được hưởng ưu đãi thuế từ khi được cấp giấy chứng nhận DN KHCN. Bên cạnh đó, xem xét miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu đối với hàng hóa là máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư chuyên dùng, trong nước chưa sản xuất được, tài liệu, sách báo, tạp chí khoa học chuyên dùng để sử dụng trực tiếp cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, phát triển hoạt động ươm tạo công nghệ, ươm tạo DN KHCN, đổi mới công nghệ.
Năm là, thu hút các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam nhằm hỗ trợ quá trình đổi mới và hình thành hệ thống DN KHCN. Để hỗ trợ các DN KHCN huy động vốn cần sớm hình thành Quỹ Đầu tư mạo hiểm theo Luật Công nghệ cao, khuyến khích, thu hút các Quỹ Đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam nhằm hỗ trợ quá trình đổi mới và hình thành hệ thống DN KHCN. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh triển khai nghiên cứu về cổ phiếu công nghệ, đưa loại cổ phiếu này trở thành hàng hóa giao dịch trên thị trường, giúp thu hút vốn, tạo động lực cho phát triển KHCN cũng như DN KHCN.
Tài liệu tham khảo:
Bộ Nội vụ (2017), Đề án đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, tổ chức lại hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập;
Ban Quản lý Khoa học & Hợp tác quốc tế, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (2018), “Thực trạng chuyển đổi tổ chức khoa học công nghệ công lập sang mô hình doanh nghiệp”, Đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ cấp cơ sở năm 2018;
Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học công nghệ, Bộ Khoa học công nghệ (2017), Báo cáo tình hình hoạt động của doanh nghiệp Khoa học công nghệ năm 2017;
Lưu Đức Tuyên (2016), Đổi mới cơ chế tự chủ đối với tổ chức khoa học công nghệ công lập;
Nguyễn Thị Lê Thu (2013), Khả năng chuyển đổi các tổ chức khoa học công nghệ công lập sang mô hình doanh nghiệp.