Chuyển giao công nghệ trong khu vực FDI: Không được bao nhiêu!
Tại hội thảo về thu hút và chuyển giao công nghệ trong khu vực đầu tư nước ngoài (FDI) ngày 25/6, các chuyên gia cho rằng, nước ta đã thu hút được nhiều vốn FDI nhưng hiệu quả chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI đến doanh nghiệp trong nước rất thấp.
Công nghệ vẫn tụt hậu
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến nay Việt Nam đã thu hút được gần 26 nghìn dự án FDI với tổng vốn đăng ký đạt 326 tỷ USD, 84% số đó là dự án 100% vốn nước ngoài. Lũy kế vốn thực hiện ước đạt 180,7 tỷ USD, bằng 56% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực.
Riêng trong 6 tháng năm 2018, cả nước thu hút được 1.362 dự án cấp mới và 507 dự án điều chỉnh vốn và 2.749 dự án góp vốn mua cổ phần với tổng vốn đăng ký là hơn 20 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài hiện là nguồn vốn bổ sung quan trọng, chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư cả nước, đóng góp khoảng 20% GDP.
Tuy nhiên, các dự án FDI chủ yếu tập trung vào lắp ráp, gia công, tỷ lệ nội địa hóa còn thấp, giá trị tạo ra tại Việt Nam không cao. Doanh nghiệp FDI chưa tạo được mối liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp Việt Nam để cùng tham gia chuỗi giá trị, chưa thúc đẩy được công nghiệp hỗ trợ Việt Nam phát triển.
TS. Nguyễn Hữu Xuyên, Viện Nghiên cứu sáng chế và Khai thác công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết: Trình độ, năng lực công nghệ và khả năng giải mã công nghệ của Việt Nam còn thấp. Cụ thể, tỷ lệ nhóm ngành sử dụng công nghệ cao của Việt Nam chỉ đạt khoảng 20%, trong khi tỷ lệ này của Thái Lan là 31%, Singapore 73%, Malaysia 51%; tiêu chí để đạt trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là trên 60%. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn dựa vào thâm dụng vốn, lao động.
Phân tích vấn đề này, Trưởng ban Kinh tế thế giới, Trung tâm thông tin dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Toàn Thắng cho rằng, doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu vẫn đầu tư vào công nghệ với mục đích giảm giá thành sản phẩm thay vì tạo ra sản phẩm mới để thâm nhập thị trường.
Tỷ lệ chi tiêu nghiên cứu và phát triển thấp nhất trong ASEAN. Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng công nghệ có vòng đời trong vòng 5 năm trở lại đây rất thấp và nguồn gốc của công nghệ từ các nước được coi là phát triển như Âu - Mỹ chiếm tỷ lệ khá thấp, trung bình chỉ 6%.
Xây dựng năng lực nội sinh
Tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thế Phương thừa nhận: “Mục tiêu về chuyển giao công nghệ trong thời gian qua chưa đạt được như mong đợi. Sự lan tỏa công nghệ từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp trong nước còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn tới”.
Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) Nguyễn Thị Tuệ Anh cho rằng, FDI có tác động lan tỏa đến nền kinh tế, thể hiện qua tác động tích cực đến năng suất của khu vực doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, tác động này chủ yếu đến từ liên kết xuôi và chuyển giao công nghệ nhờ liên kết xuôi, tức là doanh nghiệp trong nước mua đầu vào trung gian từ doanh nghiệp FDI.
Còn sức lan tỏa từ chuyển giao công nghệ nhờ liên kết ngược tức là doanh nghiệp trong nước bán đầu vào trung gian cho doanh nghiệp FDI vẫn còn yếu. Điều này đồng nghĩa với việc chỉ có rất ít doanh nghiệp trong nước được tham gia vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI.
Theo các chuyên gia, thời gian tới chúng ta cần có chính sách thu hút FDI cụ thể và thực chất hơn nữa nhằm thu được tác động lan tỏa hướng tới tăng sự tương tác, liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước.
Khuyến khích hình thức liên doanh và cân nhắc loại hình 100% vốn nước ngoài có thể cần điều kiện về hợp tác, đào tạo, phối hợp và hài hòa mục tiêu của chính sách thu hút FDI và chính sách phát triển doanh nghiệp trong nước, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
Từ kinh nghiệm của doanh nghiệp mình, ông Nguyễn Thanh Cường, đại diện Công ty Goldsun Packaging (nhà cung cấp cấp I của Samsung Electronics) cho rằng, đã đến lúc bản thân nền kinh tế của Việt Nam phải vượt lên chứ không phải dựa vào đầu tư nước ngoài.
Bản thân các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực, tìm kiếm cơ hội kết nối. Chủ động thông tin về năng lực của mình như có công nghệ, quy mô, thế mạnh và những sản phẩm dịch vụ để tìm kiếm sự kết nối với các doanh nghiệp FDI. Đồng thời, để hỗ trợ và thúc đẩy khối doanh nghiệp tư nhân phát triển, Nhà nước cần có một chiến lược về thu hút FDI hiệu quả và hữu ích hơn trong thời gian tới.
Tiếp tục đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư FDI nhưng có chọn lọc. Khuyến khích các doanh nghiệp FDI kết nối với doanh nghiệp nội, có lộ trình cam kết nội địa hóa cụ thể. Hạn chế cấp phép đầu tư nhóm ngành hàng mà các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang làm chủ được công nghệ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp nội địa phát triển, nâng cao thị phần nội địa hóa.