Con đường tư nhân hóa: Vẫn còn lòng vòng
(Tài chính) Chỉ rõ điều này tại Báo cáo Kinh tế vĩ mô Việt Nam do ngân hàng HSBC phát hành mới đây, các chuyên gia HSBC khuyến nghị: “Trong trung hạn, Chính phủ sẽ cần loại bỏ các nút cổ chai trong nền kinh tế và trong quản lý các công ty quốc doanh, đầu tư công và lĩnh vực ngân hàng”.
Tăng trưởng tiếp tục ổn định trong nửa đầu 2014
Trước những thách thức vẫn tồn tại trong nền kinh tế, đặc biệt là các khu vực phục vụ nội địa, HSBC kỳ vọng, GDP chỉ tăng ở mức 5,5% trong năm 2014 và 5,8% trong năm 2015 do nhu cầu nội địa trì trệ. Ngân hàng, đầu tư công và cải cách các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) vẫn là những mắt xích còn thiếu để Việt Nam có thể quay trở lại thời kỳ tăng trưởng 7%.
Chỉ số HSBC PMI tháng 6 tốt cho thấy, tính cạnh tranh của Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất sử dụng nhiều lao động. Bất kể nhu cầu nội địa và bên ngoài còn trì trệ và sự gián đoạn trong hai ngày các nhà máy bị đóng cửa, chỉ số PMI đã tăng trưởng một cách ổn định, được hỗ trợ bởi sản lượng và đơn hàng mới tăng mạnh. Sản xuất đã thúc đẩy GDP tăng 5,5% so với cùng kỳ năm ngoái trong quý II 2014, từ mức 4,8% của quý I.
HSBC kỳ vọng sản lượng tiếp tục tăng trong nửa sau 2014, được hỗ trợ bởi cầu bên ngoài phục hồi và đầu tư mới bắt đầu đi vào hoạt động. Đơn hàng mới tăng rất ấn tượng trong tháng Sáu, mặc dù đơn hàng xuất khẩu mới bị giảm.
Xu hướng các số liệu của tháng Sáu (bảng 2) cho thấy, nền kinh tế sẽ tăng trưởng hơn trong nửa sau năm 2014 với xuất khẩu và sản xuất dẫn đầu. Trong quý II, nền kinh tế mở rộng 5,5% tính theo cùng kỳ năm ngoái so với mức 4,8% trong quý I. HSBC kỳ vọng GDP sẽ tăng trưởng hơn trong nửa sau năm 2014.
Cầu nội địa, mặc dù còn trì trệ so với Chỉ số PMI toàn phần. Lạm phát toàn phần sẽ tăng nhẹ trong quý III từ mức 5% của tháng Sáu (tính theo cùng kỳ năm ngoái) do giá năng lượng và các dịch vụ xã hội tăng lên.
Tuy nhiên, HSBC cũng kỳ vọng CPI của quý IV giảm và ở mức 5,5% vào cuối năm 2014, tính theo cùng kỳ năm ngoái. Lãi suất OMO sẽ ổn định ở mức 5% trong phần còn lại của năm, vì nhu cầu nội địa trì trệ không còn là vấn đề do lãi suất nữa. Tính từ đầu năm tới nay, tăng trưởng tín dụng mới đạt mức 2,3% trong tháng Sáu.
Trong khi sản xuất và xuất khẩu đạt mức tốt do đặc điểm nhân khẩu học thuận lợi, Việt Nam vẫn cần một thị trường vốn lưu động để thoát khỏi bẫy thu nhập thấp tới trung bình. GDP theo đầu người của Việt Nam vẫn còn chậm và sẽ chỉ tăng gấp đôi đạt 4.000 USD vào năm 2020.
“Trong trung hạn, Chính phủ sẽ cần loại bỏ các nút cổ chai trong nền kinh tế và trong quản lý các công ty quốc doanh, đầu tư công và lĩnh vực ngân hàng”, các chuyên gia của HSBC đề xuất.
Con đường tư nhân hóa: Vẫn còn lòng vòng
Việt Nam hầu như đã thành công trong việc tư nhân hóa các công ty nhà nước. Số lượng các công ty nhà nước giảm từ 12.000 năm 1996 xuống còn ít hơn 1.000. Thủ tướng đặt ra kế hoạch cổ phần hóa 432 công ty quốc doanh vào năm 2015. Thậm chí Tổng Công ty Đầu tư vốn nhà nước (SCIC), một công ty đầu tư của nhà nước, cũng được chỉ định giảm danh mục đầu tư xuống còn ít hơn 100 công ty từ số lượng 376 công ty hiện tại. Phần đóng góp của khu vực nhà nước trong GDP giảm xuống còn 32,2% của GDP trong năm 2013 từ mức 40% năm 1996.
“Thế nhưng, những kết quả này vẫn cho thấy con đường tư nhân hóa còn lòng vòng”, báo cáo chỉ rõ.
Phần đóng góp của khu vực nhà nước trong GDP giảm chủ yếu do hoạt động không hiệu quả dẫn tới tăng trưởng trì trệ hơn so với những khu vực hiệu quả hơn như các doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Phần lớn các công ty cổ phần hóa nhỏ, trong khi số lượng các công ty quốc doanh lớn vẫn chiếm phần áp đảo trong nền kinh tế. Các công ty hàng đầu của Việt Nam vẫn là các công ty nhà nước.
Tại Hiến pháp mới vẫn khẳng định, vai trò chủ đạo của cơ quan nhà nước đối với nền kinh tế Việt Nam. Song, cần lưu ý có hai xu hướng đáng lo ngại diễn ra kể từ khi bắt đầu tư nhân hóa các công ty nhà nước năm 1992:
Thứ nhất, vị trí chủ đạo của đầu tư nhà nước đã bị đảo ngược kể từ những năm 2000. Trong khoảng từ 2009-2010, có nhiều bằng chứng thể hiện sự suy giảm vị trí đó nhưng phần đầu tư nhà nước trên tổng giá trị đầu tư vẫn chiếm một phần lớn đến 38%. Sản lượng sản xuất của các công ty nhà nước đạt 32,6% trên tổng sản lượng nhưng lại sử dụng đến 37,8% tổng vốn đầu tư.
“Điều này cho thấy, kết quả quan trọng của việc tự do hóa nền kinh tế khi vào năm 2001, khối công ty nhà nước đóng góp 38% trong tổng sản lượng sản xuất nội địa, nhưng lại sử dụng đến 60% tổng vốn đầu tư”, báo cáo chỉ rõ.
Thứ hai, các khoản đầu tư nội địa lãng phí. Rất nhiều khoản đầu tư vào các công trình cơ sở hạ tầng công cộng vẫn chưa mang lại lợi ích thiết thực đối với kế hoạch công nghiệp hóa đến năm 2020. Điển hình là việc đầu tư vào nhiều công trình cảng biển nước sâu trong khi kết nối đường bộ đóng vai trò quan trong hơn để tháo gỡ tắc nghẽn hậu cần cho những ngành xuất khẩu chính như dệt may, tôm và cà phê.
Chính phủ nhận ra rằng đầu tư công không hiệu quả, các doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng là những mắt xích còn thiếu để thúc đẩy Việt Nam tiến hành công nghiệp hóa một cách nhanh chóng. Nhưng, cải cách một cách nhanh chóng cũng dẫn tới các chi phí chính trị cao.
Từ góc độ nhà nước, trong ngắn hạn, có nhiều thứ để mất, từ doanh thu, sự ổn định chính trị, cho tới quyền sở hữu, và lại không có gì nhiều để bù lại. Do đó, cải cách ở Việt Nam đã được tiến hành với hai bước tiến và một bước lùi.
Một ví dụ rõ ràng là cải cách lĩnh vực ngân hàng. Nợ xấu gia tăng là một trong những nguyên nhân chính hệ thống ngân hàng không thực hiện được vai trò của một nhà cho vay chính trong nền kinh tế.
“Vấn đề là phạm vi chật hẹp trong đó Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có thể quản lý hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại nhà nước và các ngân hàng cổ phần”, báo cáo nhấn mạnh.
NHNN đang gia tăng khả năng giám sát của mình thông qua Quyết định 254. Đồng thời, cũng ban hành Nghị định 53 để thiết lập Công ty quản lý tài sản (VAMC) để mua nợ xấu từ các ngân hàng. Trong khi NHNN thành công trong việc xác định các ngân hàng yếu và mạnh, thúc đẩy sự sát nhập các ngân hàng yếu, mua nợ từ các ngân hàng, ổn định tiền đồng, và gia tăng dự trữ ngoại hối, NHNN lại chưa đủ độc lập để tiến hành cải cách nhằm giảm thiểu rủi ro trong lĩnh vực tài chính.
Ví dụ Thông tư 02 đã bị trì hoãn từ năm 2013 sang năm nay nhưng báo chí đã đưa tin các biện pháp chủ chốt sẽ được tiến hành để tránh gia tăng tỷ lệ nợ xấu. Nhìn về tổng thể, cải cách lĩnh vực ngân hàng còn trì trệ với nợ xấu vẫn chưa được giải quyết.
NHNN đã tập trung nhiều hơn vào việc duy trì giá cả, tỷ giá và hệ thống tài chính ổn định hơn là vào việc đạt các chỉ tiêu tăng trưởng do Chính phủ giao.
“Nếu NHNN áp dụng một cách tiếp cận từ từ, thì vẫn còn chưa rõ làm thế nào Việt Nam có thể giải quyết vấn đề nợ xấu”, các chuyên gia HSBC băn khoăn.
Theo đánh giá của HSBC, Việt Nam đang đi đúng hướng để cải thiện quản trị, nâng cao năng lực thể chế và xây dựng cơ sở hạ tầng hỗ trợ thương mại và đầu tư, các cải cách sẽ diễn ra một cách từ từ trong 2 năm nữa bao gồm cả quá trình tư nhân hóa. Nhà nước cũng đang giảm các đầu tư lãng phí và giảm tổng đầu tư của mình, để các khu vực kinh tế khác được phát triển như khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài.
“Các lĩnh vực như điện và hậu cần được tự do hóa một cách chậm chạp. Nhưng Nhà nước sẽ có thể duy trì cổ phần chính trong các lĩnh vực chiến lược”, các chuyên gia của HSBC khuyến nghị.