Đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp dân tộc
(Tài chính) Những đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đối với sự phát triển của kinh tế Việt Nam là không thể phủ nhận, tuy nhiên những vấn đề phát sinh từ thực tế thu hút đầu tư cũng để lại không ít hệ lụy. Chuyên đề tuần này của TBKTSG nhìn lại vấn đề này không ngoài mục đích làm sao để thu hút đầu tư hiệu quả hơn, cân bằng lợi ích giữa các bên và giảm sự lệ thuộc của nền kinh tế vào khu vực ĐTNN.

Thành quả của 25 năm
Đến hết tháng 12/2012, cả nước có 14.522 dự án ĐTNN còn có hiệu lực với tổng số vốn đăng ký 210,5 tỉ đô la Mỹ, trong đó vốn thực hiện là 100,6 tỉ đô la, chiếm 47% vốn đăng ký.
Khu vực ĐTNN đóng góp 19% GDP cả nước (năm 2011), vốn ĐTNN chiếm 24,3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, doanh nghiệp ĐTNN đóng góp đến 65% giá trị xuất khẩu của cả nền kinh tế, tạo hơn 2 triệu việc làm, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa...
Trong những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu tăng cao chủ yếu dựa vào ĐTNN trong khi xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước giảm sút.
Tuy kim ngạch xuất khẩu lớn nhưng giá trị gia tăng tại Việt Nam của công nghiệp lắp ráp, gia công của ĐTNN chỉ khoảng 10-20%, vì vậy nhập khẩu của ĐTNN tăng lên rõ rệt. Chỉ riêng Samsung Electronics Vietnam nhập khẩu toàn bộ linh kiện điện thoại từ Samsung China để năm 2013 có thể xuất khẩu lên đến trên 20 tỉ đô la Mỹ đã làm nhập siêu từ Trung Quốc tăng rất mạnh.
Đầu tư nước ngoài cũng góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế về vốn của Việt Nam trở thành dương trong khi nhập siêu vẫn trầm trọng và cân đối tài khoản vãng lai thường xuyên bị thâm hụt. Đó là những thành tựu rất đáng trân trọng.
Những vấn đề không thể xem thường
Tuy vậy, cũng còn không ít điều cần được xem xét một cách nghiêm túc về hiệu quả của ĐTNN đối với nền kinh tế quốc dân.
Số vốn thực hiện của ĐTNN được Việt Nam công bố thường cao hơn nhiều so với số liệu của Quỹ Tiền tệ quốc tế và UNCTAD. Lý do vì Việt Nam thường cộng cả phần vốn góp của đối tác Việt Nam trong liên doanh, thường là giá trị đất trong khi các tổ chức quốc tế chỉ tính phần vốn (equity) chuyển vào của đối tác nước ngoài, không kể phần tín dụng của dự án.
Tỷ trọng lao động được sử dụng cũng chỉ chiếm khoảng 3% tổng lao động xã hội, thấp hơn hẳn so với tỷ trọng ĐTNN trong GDP nêu trên.
Nhằm phá vỡ thế bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã quyết định thu hút ĐTNN trước khi cho phép kinh tế tư nhân trong nước ra đời, với những khuyến khích rất cao.
Nghị định 115-CP ngày 18/4/1977 được ký trong khi chiến dịch cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế tư nhân và hợp tác hóa nông nghiệp đang được đẩy mạnh trong cả nước, nhất là ở miền Nam. Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành tháng 12/1987, sớm hơn ba năm so với Luật Công ty và Doanh nghiệp tư nhân ra đời vào tháng 12/1990.
Các ưu đãi đối với ĐTNN về thuế, tiền thuê đất... cũng cao hơn, lâu dài hơn nhiều so với doanh nghiệp trong nước cho đến khi Việt Nam thực hiện cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, tạo ra sân chơi bình đẳng với Luật Đầu tư chung năm 2005.
Vì vậy, tỷ trọng thu ngân sách từ ĐTNN rất khiêm tốn, tối đa cũng chỉ đạt 14,3% tổng thu (năm 2011), trong đó chủ yếu là thuế giá trị gia tăng, chiếm 36% số thu từ ĐTNN, là loại thuế do người tiêu dùng phải gánh chịu khi mua hàng hóa.
Thí dụ như Samsung Electronics Vietnam xuất khẩu điện thoại thông minh Galaxy lên đến 12,5 tỉ đô la (năm 2012) cũng hầu như không đóng thuế thu nhập doanh nghiệp bao nhiêu và đầu năm 2013, khi vào khu chế xuất cũng không phải đóng thuế giá trị gia tăng. Riêng khoản này đã làm giảm thu 226 tỉ đồng/quí cho Bắc Ninh trong nửa đầu năm 2013.
Điều đáng chú ý là có đến khoảng 50% tổng số doanh nghiệp ĐTNN báo lỗ liên tục trong ba năm, trong đó ở Bình Dương có đến 200/1.590 doanh nghiệp ĐTNN lỗ quá vốn chủ sở hữu.
Trường hợp điển hình là Coca-Cola báo lỗ liên tục từ khi thành lập (năm 2004) đến nay trong khi doanh thu liên tục tăng mạnh và cam kết đầu tư 300 triệu đô la Mỹ trong ba năm tới để mở rộng sản xuất.
Tương tự, Metro Cash & Carry, Adidas... cũng liên tục báo lỗ, có nghĩa là Việt Nam cấp hàng ngàn héc ta đất, cung ứng cả trăm ngàn lao động, mà ngân sách không thu được gì! Nghi án “chuyển giá” đã rõ, song các cơ quan có trách nhiệm của Việt Nam chưa “bắt tận tay, day tận trán” nên họ tiếp tục kinh doanh với doanh thu liên tục tăng nhanh và tiếp tục không nộp thuế!
Nên điều chỉnh mức độ phân cấp
Từ năm 2006, Chính phủ đã thực hiện phân cấp mạnh mẽ cho các tỉnh, thành phố cấp phép ĐTNN với hy vọng phát huy tính năng động, sáng tạo, phát huy lợi thế so sánh của các địa phương. Số dự án được cấp phép tăng lên nhưng mặt trái cũng bộc lộ quá rõ. Cuộc cạnh tranh thu hút ĐTNN giữa các tỉnh đạt đến cao trào, nhiều tỉnh đã chấp nhận “đục tường, phá đáy” về ưu đãi thuế, giảm giá đất vượt quá quy định của pháp luật, làm tổn hại đến lợi ích chung của nền kinh tế quốc dân.
Do sự phân cấp mạnh nhưng năng lực thẩm định thấp, lại thiếu sự giám sát chặt chẽ, nên có không ít tỉnh đã cấp phép cho những nhà ĐTNN “dỏm”, phải thu hồi giấy phép ĐTNN có quy mô vài chục tỉ đô la Mỹ sau khi để đất hoang hóa nhiều năm, có nơi đến hơn 10 năm.
Cũng do địa phương cấp phép mà thiếu sự cân đối liên ngành ở cấp trung ương nên tạo ra sự mất cân đối nghiêm trọng về năng lượng, giao thông, vận tải, lao động... Thí dụ như một nhà máy ĐTNN luyện thép từ sắt vụn của Trung Quốc với công nghệ lạc hậu ở Thái Bình đã ngay lập tức nâng mức tiêu thụ điện của cả tỉnh lên gấp đôi! Việc thu hút ĐTNN không theo quy hoạch, kế hoạch đã tạo ra sự mất cân đối cả về ngành (như sắt thép, xi măng, lắp ráp ô tô...) cũng như về vùng, đem lại những hệ lụy không nhỏ về kinh tế - xã hội.
Thực tế cho thấy tư tưởng “thành tích chủ nghĩa”, chạy theo số lượng, tư duy nhiệm kỳ theo kiểu “nhiệm kỳ tôi phải hơn nhiệm kỳ trước”, đã thúc đẩy không ít địa phương chạy theo những thành tích giả tạo về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cho phép các nhà ĐTNN khai thác tài nguyên, đất đai, khoáng sản nhưng không đem lại lợi ích tương xứng cho nền kinh tế.
Trong không ít trường hợp, dấu hiệu “lợi ích nhóm” đã thấy rõ trong việc cấp phép ĐTNN, gây bất lợi cho đất nước, bán rẻ tài nguyên. Trong khi doanh nghiệp dân doanh trong nước phát triển ở tất cả các tỉnh, thành phố với mức độ khác nhau thì ĐTNN không vào các vùng sâu, vùng xa, rất ít vào nông nghiệp.
Giải pháp cho tình hình này không thể là quay lại tập trung quan liêu mà phải điều chỉnh mức độ phân cấp cho phù hợp với năng lực của các tỉnh, thành phố, nâng cao năng lực giám định dự án ĐTNN của các địa phương, hoàn chỉnh quy trình thẩm định dự án, năng lực nhà ĐTNN và bảo đảm các cân đối liên ngành, quy hoạch ngành và vùng.
Các tiêu chí đánh giá thành tích không chỉ dựa vào tốc độ tăng GDP (thường được thổi lên quá cao so với thực tế) mà bao gồm một tập hợp các tiêu chí về hiệu quả kinh tế - xã hội, môi trường sống, khắc phục tư duy nhiệm kỳ và lợi ích nhóm.
Ô nhiễm môi trường - thực trạng đáng báo động
Một vấn đề nhức nhối khác là các doanh nghiệp ĐTNN gây ô nhiễm môi trường khá nghiêm trọng nhưng trong hội thảo 25 năm ĐTNN, báo cáo của Bộ Tài Nguyên và Môi trường chỉ đề cập đến chính sách sử dụng đất cho ĐTNN mà không hề đề cập đến vấn đề bảo vệ môi trường!
Những vụ Vedan ở Đồng Nai hay Tung Kuang ở Hải Dương chỉ là những tảng băng nổi. Tình trạng gây ô nhiễm môi trường là phổ biến và khá nặng nề. Có thể thấy ngay tại sao các nước đầu tư nhiều vào sản xuất xi măng ở Việt Nam, không chỉ để khai thác tài nguyên mà còn khai thác cả về môi trường.
Thực tế cho thấy thẩm định về môi trường đối với ĐTNN rất sơ sài, thường chỉ là tiền kiểm. Các quy định của Việt Nam quá lạc hậu trong khi công tác thanh, kiểm tra có nhiều bất cập, thậm chí có dấu hiệu tiêu cực nên thường không hoặc chậm phát hiện cho đến khi tác hại môi trường đã rất nghiêm trọng.
Tác động lan tỏa thấp, chuyển giao công nghệ không thành
![]() |
Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng liệt kê hàng loạt công ty nước ngoài như Toyota, Samsung, Ford, Honda, Intel... đã đầu tư vào Việt Nam như một thành tựu. Song, số các tập đoàn xuyên quốc gia đầu tư vào Việt Nam còn quá thấp và các công ty đó không thể thay thế thương hiệu của các doanh nghiệp dân tộc Việt Nam, không thể đại diện cho nền kinh tế và đất nước Việt Nam. Hơn thế nữa, không ít thương hiệu Việt Nam đã được nước ngoài mua lại.
Hy vọng về ĐTNN sẽ chuyển giao công nghệ, có tác động lan tỏa đã không trở thành hiện thực. Chỉ có 5% doanh nghiệp ĐTNN có công nghệ cao, 80% có công nghệ trung bình thấp, và số hợp đồng chuyển giao công nghệ, bí quyết rất hạn chế.
Gần đây, cùng với việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, cam kết mở cửa thị trường nội địa, một xu hướng rất đáng lo ngại là ĐTNN nắm khâu phân phối và tác động ngược lại đối với doanh nghiệp Việt Nam.
Nếu như Hàn Quốc đã thành công trong việc phát triển khâu phân phối hoàn toàn dựa trên các công ty Hàn Quốc, chuỗi siêu thị Wal-Mart cũng đã phải ra đi và Nhật Bản kiểm soát rất chặt chẽ ĐTNN vào phân phối thì các địa phương Việt Nam lại quá hào phóng trong cấp phép cho ĐTNN về phân phối: địa điểm tốt nhất, đất rộng nhất dành cho các nhà ĐTNN trong khi các siêu thị Việt Nam thua ngay trên sân nhà.
Nắm khâu phân phối, các siêu thị ép giá, giảm tỷ lệ lợi nhuận đối với nhà sản xuất Việt Nam, thậm chí ép các doanh nghiệp in thương hiệu Việt của mình rất nhỏ so với thương hiệu của siêu thị.
Yêu cầu về cải cách thể chế
Thể chế nào, doanh nghiệp ấy. Những bất lợi từ khu vực ĐTNN bắt nguồn từ những yếu kém về thể chế và chính sách của nước ta. Thu hút ĐTNN có thể so sánh với mời hổ vào nhà mình. Nếu thầy dạy giỏi thì hổ sẽ giúp thầy biểu diễn, kiếm bộn tiền. Nếu thầy dạy hổ quá yếu thì hổ có thể ăn thịt cả thầy! Trong những năm gần đây, ĐTNN ở Đông Nam Á đã có xu hướng chuyển sang Indonesia, Myanmar và yêu cầu cải cách thể chế để nâng cao năng lực cạnh tranh ngày càng cấp bách.
Câu hỏi đặt ra là Việt Nam có thể hy vọng thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa bằng ĐTNN không? Kết quả đạt được cho đến nay cho phép trả lời là không thể công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại chỉ trông chờ vào ĐTNN mà không phát triển những doanh nghiệp dân tộc, có thương hiệu cạnh tranh trên thị trường thế giới, làm biểu tượng cho đất nước Việt Nam. Đã đến lúc phải cân đối lại giữa chính sách thu hút ĐTNN bằng mọi giá trong khi không coi trọng phát triển các doanh nghiệp dân tộc của Việt Nam.
Năm 2015, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) sẽ đi vào hoạt động, một thị trường, một khu vực đầu tư thống nhất của 10 nước ASEAN sẽ hình thành.
Các chính sách và thể chế của nước ta phải cải cách mạnh mẽ để phát huy lợi thế của nền kinh tế nước ta trong tình hình mới.