Đẩy mạnh và phát triển doanh nghiệp logistics ở Việt Nam
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, logistics là Ngành có sự phát triển mạnh để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của hoạt động giao lưu thương mại. Việt Nam được đánh giá là một thị trường đầy tiềm năng và hấp dẫn cho sự phát triển của ngành dịch vụ logistics, tuy nhiên, trên thực tế hoạt động này tại Việt Nam còn nhiều bất cập. Bài viết sử dụng mô hình SWOT để phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động, phát triển của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics tại Việt Nam, qua đó, làm rõ điểm mạnh, điểm yếu cũng như cơ hội và thách thức đặt ra.
Thực trạng thị trường logistics Việt Nam
Thống kê mới đây của Hiệp hội doanh nghiệp (DN) logistics Việt Nam cho thấy, cả nước hiện có khoảng trên 1.300 DN logistics đang hoạt động, bao gồm cả DN có vốn nước ngoài. Các DN cung cấp dịch vụ logistics ở Việt Nam hầu hết là những DN nhỏ và vừa (DNNVV).
Một số DN lớn như: Công ty Transimex Saigon, Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, Gemadept, Vietrans, Vietfracht… Dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện có quy mô khoảng 20-22 tỷ USD/năm, chiếm 20,9% GDP của cả nước. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành dịch vụ logistics trong những năm qua là từ 16 – 20%/năm.
Theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam hiện đứng thứ 64/160 nước về mức độ phát triển logistics và đứng thứ 4 trong ASEAN sau Singapore, Malaysia và Thái Lan. Với tốc độ phát triển hàng năm đạt từ 16 – 20%, đây là một trong những ngành dịch vụ tăng trưởng nhanh và ổn định nhất của Việt Nam trong thời gian qua.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, các DN logistics mới chỉ cung cấp một số dịch vụ trong chuỗi logistics. Các dịch vụ logistics chủ yếu mà các DN kinh doanh logistics Việt Nam cung ứng cho khách hàng là dịch vụ kho bãi, vận tải hàng hóa, giao nhận hàng hóa, bốc xếp, dịch vụ phân loại, đóng gói bao bì, lưu kho... còn các dịch vụ khác trong chuỗi dịch vụ logistisc mặc dù cũng có một số DN cung ứng nhưng số lượng không nhiều và chưa thực sự được quan tâm phát triển.
Trong 30 tập đoàn giao nhận hàng đầu thế giới, hiện đã có tới 25 tập đoàn thâm nhập thị trường Việt Nam, chiếm lĩnh 75% thị phần, chủ yếu là các lĩnh vực mang lại giá trị gia tăng cao. Ngược lại, với khoảng 1/4 nhỏ hẹp và khó khăn còn lại, các DN nội tự “trồi sụt”, “giành giật” từng cơ hội.
Thị phần nhỏ hẹp, giá trị gia tăng thấp, khiến chi phí cho dịch vụ logistics ở Việt Nam được đánh giá đang ở mức độ quá cao. Không chỉ vậy, năng lực của các DN Logistics Việt Nam còn hạn chế bởi chất lượng cán bộ không đáp ứng được nhu cầu. Trong số các DN nội địa, có tới 93 – 95% người lao động không được đào tạo bài bản, chủ yếu làm dịch vụ ở các chuỗi cung ứng nhỏ như giao nhận, kho bãi, xử lý vận đơn…
Đánh giá logistics Việt Nam qua mô hình SWOT
Điểm mạnh
Những điểm mạnh của logistic Việt Nam có thể kể đến gồm:
- Việt Nam có chỉ số LPI (Logistics performance index) theo báo cáo Ngân hàng Thế giới năm 2014 xếp hạng 48/155 nền kinh tế, tăng 5 bậc so với xếp hạng tại 3 báo cáo trước đây (vào các năm 2007, 2010, 2012) và dẫn đầu về hoạt động logistics trong nhóm các nước có thu nhập trung bình thấp. Việt Nam được đánh giá là nước có tiềm năng phát triển mạnh mẽ về hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics trong thời gian sắp tới.
- Số DN thành lập và hoạt động trong ngành khá lớn gồm nhiều thành phần, cả nước có khoảng 1.300 DN cung ứng dịch vụ logistics (vượt qua Thái lan, Singapore) tập trung chủ yếu ở TP. Hồ Chí Minh – nơi thu hút trên 70% hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam. Các công ty logistics đa quốc gia hàng đầu trên thế giới cũng đã có mặt tại Việt Nam như Fedex, Maersk, DB Schenker, APL, DHL, NYK Logistics… và hoạt động dưới nhiều hình thức, đặc biệt trong việc cung ứng dịch vụ 3PL với trình độ công nghệ hiện đại, chuyên nghiệp như tại các nước phát triển.
Các DN Việt Nam sở hữu phần lớn kho bãi, khiến DN nước ngoài phải thuê lại hoặc liên kết, liên doanh để phục vụ dịch vụ logistics.
Tốc độ tăng trưởng doanh thu thị trường logistics ở mức cao, khoảng 25%/năm. Quy mô thị trường đạt hơn 20 tỷ USD và vẫn chưa được khai thác hết.
Điểm yếu
Tuy số lượng đông nhưng hầu như các DN logistisc Việt Nam là các DN nhỏ và vừa, hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics còn manh mún, thiếu kinh nghiệm và chuyên nghiệp, cung cấp các dịch vụ cơ bản, hoặc cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ, cạnh tranh về giá là chủ yếu, ít giá trị gia tăng, thường chỉ đóng vai trò là nhà thầu phụ hay đại lý cho các công ty nước ngoài.
Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải còn yếu kém, ứng dụng công nghệ thông tin chưa hiệu quả nên chi phí logictics tại Việt Nam khá cao, chiếm 25% GDP (so với các nước phát triển chỉ từ 9 đến 15%) trong đó, chi phí vận tải chiếm 30 đến 40% giá thành sản phẩm (tỷ lệ này là 15% ở các quốc gia khác). Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của dịch vụ, hàng hóa của các DN Việt Nam.
Tiềm lực tài chính của các DN logistics Việt Nam yếu (80% DN thành lập có vốn pháp định từ 1,5 - 2 tỷ đồng), chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, khả năng kết nối tổ chức mạng lưới toàn cầu, hệ thống thông tin chưa rõ ràng, quy mô hoạt động chưa vượt ra khỏi quy mô trong nước và khu vực.
Việt Nam còn thiếu các khu kho vận tập trung có vị trí chiến lược, đồng bộ với hệ thống cảng, sân bay, đường quốc lộ, cơ sở sản xuất; Mất cân đối cung cầu tại các cảng biển miền Nam. Khả năng cạnh tranh của các DN nội địa cũng còn thấp so với DN FDI.
Cơ hội
Cùng với quá trình phát triển, ngành logistic Việt Nam đứng trước những cơ hội lớn như sau:
Quy mô thị trường dịch vụ logistics Việt Nam nhỏ (khoảng 2-4% GDP) nhưng tốc độ tăng trưởng cao (20-25% năm). Kim ngạch xuất nhập khẩu và ngành bán lẻ có mức tăng trưởng khá cao. Khối lượng hàng hóa qua cảng biển dự kiến tăng lên đến 900 - 1.000 triệu tấn vào năm 2030 dự kiến 1.600 – 2.100 triệu tấn (năm 2015 đạt khoảng 600 triệu tấn)
- Giá nhiên liệu đang ở mức thấp, giúp giảm chi phí đầu vào của lĩnh vực vận tải.
- 2/3 số lượng hàng hóa xuất nhập khẩu (XNK) của thế giới dự báo sẽ phải đi qua vùng biển Đông trong 5-10 năm tới, giúp cải thiện nhu cầu vận tải.
- Chu kỳ suy thoái của vận tải biển bắt đầu từ năm 2008, tính đến hết năm 2015 là khoảng 7 năm. Vì vậy, một chu kỳ tăng trưởng mới của ngành vận tải biển đã bắt đầu trong những năm sắp tới.
- Sự quan tâm từ phía Chính phủ thông qua các quy hoạch chiến lược như Quy hoạch phát triển vận tải biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
- Nhà nước đã có quy hoạch và trên thực tế bằng nhiều nguồn vốn đang và sẽ đầu tư phát triển khu cảng nước sâu Cái Mép, cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong, Sân bay quốc tế Long Thành, hành lang đường bộ Đông Tây (EWEC), hành lang Hà Nội - Hải Phòng - Hà Khẩu - Côn Minh, hệ thống đường bộ cao tốc, đường sắt xuyên Á… Các thể chế tiếp tục củng cố, tạo thuận lợi như thủ tục hải quan, cải cách hành chính, đẩy nhanh tiến trình hội nhập sâu khu vực và thế giới.
Thách thức
Ngành logistic nói chung, các DN logistic nói riêng của Việt Nam phải đối diện với nhiều thách thức. Trước mắt, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải yếu kém, không đồng bộ, chưa tạo ra hành lang vận tải đa phương thức trong khi nhu cầu trung chuyển chất lượng cao cho hàng hóa giữa các phương thức đang ngày càng lớn. Hệ thống thông tin lại thiếu và chưa hiệu quả. Nguồn nhân lực làm dịch vụ logistics chưa qua đào tạo bài bản và còn thiếu, yếu, chưa đáp ứng, đặc biệt thiếu các chuyên viên logistics giỏi có năng lực ứng dụng và triển khai tại các DN nghiệp.
Hoạt động của chính các DN logistics còn nhiều hạn chế cả về quy mô hoạt động, vốn, nguồn nhân lực… Bên cạnh đó, còn thiếu sự kết nối giữa DN xuất khẩu và DN Logistics do thói quen nhập khẩu CIF và xuất khẩu theo FOB. Mặt khác, thể chế, chính sách nhà nước với ngành logistics chưa rõ ràng, không đồng bộ, bất cập, chưa tạo điều kiện hỗ trợ logistics non trẻ phát triển; Chi phí kinh doanh không chính thức cao...
Giải pháp phát triển doanh nghiệp logistic Việt Nam
Với những thách thức trên, các DN logistic cần có giải pháp nhằm đẩy mạnh và phát triển hơn ngành dịch vụ tiềm năng này.
Thứ nhất, nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh của các DN cung cấp dịch vụ logistics.
Chất lượng và giá dịch vụ quyết định khả năng cạnh tranh của DN cung cấp dịch vụ logistics. Nếu chất lượng dịch vụ tốt, giá cả hợp lý, chắc chắn DN nội địa sẽ có nhiều lợi thế hơn so với các DN nước ngoài. Hai tiêu chí này là tiêu chí hàng đầu để khách hàng lựa chọn nhà cung ứng logistics cho mình. DN phải nâng cao khả năng của mình trong việc đáp ứng yêu cầu của các chủ hàng về thời gian, chất lượng và giá dịch vụ.
Nhằm hướng tới mục tiêu tham gia vào hệ thống logistics toàn cầu, đối với các DN cung cấp logistics nói chung và đặc biệt trong lĩnh vực hàng hải nói riêng, để có thể cung cấp logistics theo đúng nghĩa, các DN Việt Nam cần phải: Hiểu rõ và nhận thức đúng về quy trình cung cấp các dịch vụ logistics, đặc biệt là trong quá trình vận tải; Đào tạo có hệ thống nguồn nhân lực có kinh nghiệm và được trang bị đầy đủ những kiến thức chuyên môn, am hiểu luật pháp trong nước và quốc tế.
Ngoài ra, nguồn nhân lực cần được nâng cao trình độ ngoại ngữ để đáp ứng với việc hội nhập các DN cần đầu tư cơ sở vật chất, nâng cấp và mở rộng hệ thống kho bãi, các trang thiết bị bốc xếp, vận chuyển chuyên dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác; Liên doanh, liên kết với các DN trong và ngoài nước để kết nối, mở rộng mạng lưới dịch vụ trong cả nước và trên thế giới để tạo đầu ra thị trường ngoài nước và nâng cao khả năng chuyên môn của cán bộ để từ đó nâng cao tính cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh.
Đến hết năm 2020, kim ngạch XNK của Việt Nam được dự báo sẽ đạt mức khoảng 300 tỷ USD, hàng container qua hệ thống cảng biển Việt Nam đạt 67,7 triệu TEU, do vậy tiềm năng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam là rất lớn. Dự đoán, trong tương lai không xa, dịch vụ cung cấp logistics sẽ trở thành ngành kinh tế quan trọng, có thể đóng góp tới 15% GDP của cả nước.
Ngoài ra, dịch vụ logistics cũng tác động đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, của các DN và của toàn bộ nền kinh tế. Thêm vào đó, việc ký kết hiệp định CPTPP và gia nhập cộng đồng kinh tế chung AEC cũng sẽ đem lại cho các DN cung cấp dịch vụ logistics một sân chơi mới với nhiều thách thức và cơ hội, hơn bao giờ hết đòi hỏi sự nỗ lực hết mình của bản thân các DN và sự hỗ trợ của Nhà nước, các bộ, ngành liên quan...
Thứ hai, ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là thương mại điện tử vào quá trình hoạt động kinh doanh của DN.
DN cung ứng logistics cần nhanh chóng thúc đẩy và áp dụng công nghệ thông tin vào quá trình hoạt động kinh doanh của mình, trao đổi thông tin và các dữ liệu điện tử trong thương mại, khai hải quan điện tử để tận dụng ưu thế của công nghệ thông tin nhằm mang lại năng suất lao động cao, tiết kiệm chi phí, giảm thiểu tình trạng tiêu cực, gian lận trong thương mại, XNK và hải quan; Áp dụng thành tựu của công nghệ thông tin, trao đổi dữ liệu bằng hệ thống máy tính với sự hỗ trợ của mạng lưới thông tin liên lạc và công nghệ xử lý thông tin đóng vai trò quan trọng sống còn đối với việc quản lý cả quá trình hoạt động logistics, đặc biệt là quản lý sự di chuyển của hàng hóa và các chứng từ.
Cơ quan quản lý cần khuyến khích các DN áp dụng và phát triển các hệ thống quản lý dây chuyền cung ứng liên kết trong ASEAN nhằm tạo nên sự gắn kết các giải pháp đặt kế hoạch, hệ thống lưu giữ, lấy hàng hóa bằng phương tiện không dây. Ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là thương mại điện tử vào quá trình hoạt động logistics sẽ tiết kiệm được các chi phí, thông tin thông suốt đảm bảo cho quá trình hoạt động thuận lợi, nhanh chóng, đạt hiệu quả cao.
Thứ ba, đẩy mạnh liên kết và cổ phần hóa.
Để đảm bảo cung ứng một chuỗi logistics trọn vẹn như các DN nước ngoài, đã đến lúc các DN cung cấp dịch vụ logisitcs cần hợp tác và chia sẻ nguồn lực xây dựng chuỗi dịch vụ trọn gói. Điều này giúp họ có khả năng cạnh tranh tốt hơn và đặc biệt là có thể đầu tư chiều sâu vào logistics cả về con người và hệ thống thông tin - hai thế mạnh nổi bật của các nhà cung cấp dịch vụ logistics nước ngoài.
Xu hướng cổ phần hóa mạnh mẽ các DN nhà nước đã tạo đà cho khả năng hợp tác liên kết chiến lược trở nên rất khả thi. Hoạt động liên kết hợp tác là một quá trình tích hợp điểm mạnh và loại bỏ điểm yếu. Quá trình ấy đòi hỏi DN thực hiện việc tái lập đến tận gốc rễ quy trình kinh doanh cố hữu của mình và hơn hết, họ cần một đội ngũ tư vấn chuyên nghiệp đảm bảo việc tích hợp thành công.
Thứ tư, xây dựng thương hiệu và chiến lược marketing.
Mỗi DN cũng cần khẳng định vị trí của mình một cách rõ ràng trong tâm tưởng người mua, người sử dụng để nhằm thu hút khách hàng trong thời buổi cạnh tranh. Một thương hiệu tốt, marketing tốt sẽ tạo thuận lợi cho việc mở rộng hoạt động cho DN không chỉ trong nước mà còn với thị trường nước ngoài. Để xây dựng thương hiệu và chiến lược marketing, các DN logistics cần tập trung chú trọng một số vấn đề sau:
- Xác định phân khúc thị trường: Mỗi chủng loại mặt hàng khác nhau thì lại cần phải thiết kế một chuỗi cung ứng dịch vụ logistics khác nhau, có như vậy mới tối ưu hóa được quy trình, tiết kiệm chi phí và thời gian;
- Đa dạng hóa dịch vụ cung cấp;
- Mở rộng mối quan hệ với các văn phòng đại diện và tổ chức kinh tế nước ngoài tại Việt Nam để dễ dàng hơn trong việc quảng bá hình ảnh với các đối tác nước ngoài;
- Mở rộng địa bàn hoạt động từng bước một từ quốc gia cho đến quốc tế bằng việc nghiên cứu thị trường, khảo sát tìm tòi và học hỏi kinh nghiệm nhằm xây dựng mạng lưới đại lý của DN;
- Bất cứ chính sách marketing nào của DN cũng phải được để củng cố và xây dựng thương hiệu của DN lớn mạnh hơn. Để gắn bó được với khách hàng, sản phẩm của DN phải thỏa mãn hoặc vượt hơn sự mong đợi (chứ không chỉ là nhu cầu) của khách hàng trong lĩnh vực logistics.
Thứ năm, tăng cường vai trò, cộng tác chặt chẽ giữa các hiệp hội ngành nghề liên quan.
Các hiệp hội liên quan tới logistics gồm Hiệp hội logistics Việt Nam, Hiệp hội Chủ tàu Việt Nam, Hiệp hội Đại lý - Môi giới hàng hải Việt Nam, Hiệp hội Cảng biển Việt Nam, Hiệp hội Vận tải ôtô trong quá trình phát triển logistics hàng hải. Các hiệp hội ngành nghề này cần phát huy vai trò tạo dựng các liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa các DN trong ngành nhằm nâng cao chất lượng logistics.
Cần đẩy mạnh việc hợp tác giữa Hiệp hội cảng biển Việt Nam và Hiệp hội logistics Việt Nam, tăng cường hợp tác trong việc trao đổi thông tin có liên quan tới các hoạt động xếp dỡ hàng hóa, các thủ tục giao nhận hàng hóa của cảng, các loại giá dịch vụ cảng biển, thời gian tàu đến, rời cảng, việc điều động phương tiện vận tải giao nhận hàng nhằm tránh ùn tắc tại cảng, các thông tin về hàng hóa và giao nhận kho vận, thông tin về các cảng biển và các công ty giao nhận vận tải...
Đồng thời, cần tăng cường hợp tác trong việc bảo đảm an ninh hàng hóa và cảng biển; Hợp tác trong vấn đề đào tạo về dịch vụ logistics. Sự hợp tác có hiệu quả giữa hai Hiệp hội và đặc biệt là từng hội viên đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển logistics trong thời gian tới, góp phần vào việc giúp các DN Việt Nam tham gia vào hệ thống logistics toàn cầu.
Tài liệu tham khảo:
1. GS., TS. Đặng Đình Đào, Dịch vụ logistics Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế (2011); Logistics những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam (2011), NXB Đại học Kinh tế Quốc dân;
2. GS., TS. Đoàn Thị Hồng Vân, Quản trị logistics (2006), NXB Thống kê; Logistics – Những vấn đề cơ bản (2010), NXB Lao Động Xã Hội, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh;
3. “Báo cáo Logistics”, FPT, 07/2015 của 2 tác giả Lâm Trần Tấn Sĩ và Phan Nguyễn Trung Hưng;
4. PGS., TS. Nguyễn Như Tiến, 2006, Logistics khả năng ứng dụng và phát triển trong kinh doanh dịch vụ vận tải và giao nhận Việt Nam, NXB Giao thông vận tải, Hà Nội;
5. Các trang điện tử: www.tapchitaichinh.vn; thongkeitnternet.vn; www.customs.gov.vn; caphesach.wordpress.com.