Để áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế thành công trong doanh nghiệp Việt Nam

TS. Nguyễn Văn Hòa - Trường Đại học Kinh Bắc

Việc áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) không chỉ đem lại lợi ích cho kinh tế Việt Nam mà còn đem lại lợi ích thiết thực cho các doanh nghiệp và người sử dụng báo cáo tài chính. Theo thống kê của Bộ Tài chính, hiện nay, trên thế giới có 131/143 quốc gia và vùng lãnh thổ (chiếm tỷ lệ 93%) tuyên bố chính thức về việc áp dụng IFRS với các hình thức khác nhau. Trong đó, 119/143 (chiếm tỷ lệ 83,2%) quốc gia và vùng lãnh thổ yêu cầu bắt buộc sử dụng các chuẩn mực của IFRS đối với tất cả hoặc hầu hết các đơn vị lợi ích công chúng trong nước.

Tác động tích cực của việc áp dụng IFRS đến nền kinh tế Việt Nam

IFRS chính thức áp dụng trên toàn thế giới từ ngày 1/1/2015, đến nay đã có trên 140 quốc gia và vùng lãnh thổ áp dụng. Mục tiêu của IFRS là cung cấp một khuôn khổ quốc tế về cách lập và trình bày báo cáo tài chính (BCTC) cho các công ty đại chúng. IFRS tập trung hướng dẫn, diễn giải chung nhất về cách lập BCTC hơn là thiết lập các quy tắc lập báo cáo ngành cụ thể…

Thông qua áp dụng IFRS, nền kinh tế Việt Nam nói chung và DN Việt Nam nói riêng sẽ được hưởng lợi từ hội nhập kinh tế, ví dụ như tiếp cận nguồn vốn, duy trì năng lực cạnh tranh và phát triển một cách bền vững, phát triển đội ngũ nhân sự kiểm toán...

Theo các chuyên gia kế toán, việc áp dụng toàn bộ IFRS sẽ mở ra một xu hướng mới, thay đổi cách thức ghi nhận, đo lường và trình bày các yếu tố của BCTC, loại trừ sự khác biệt trong các chuẩn mực kế toán và là điều kiện để đảm bảo các DN và tổ chức trên toàn thế giới áp dụng trên nguyên tắc kế toán một cách thống nhất trong lập và trình bày các BCTC. Đến nay, dù còn nhiều tranh luận nhưng không thể phủ nhận những lợi ích IFRS mang lại. Việc áp dụng IFRS đem lại nhiều lợi ích trong đó có lợi ích to lớn về tăng tính minh bạch, tính có thể so sánh tăng hiệu quả thị trường, giảm chi phí vốn và tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp (DN).

Đối với Việt Nam, việc áp dụng IFRS sẽ giúp Việt Nam đi đúng hướng các chính sách của các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), cũng như theo kịp đà phát triển của những nền kinh tế thành công khác trong khu vực và trên thế giới. Thông qua áp dụng IFRS, nền kinh tế Việt Nam nói chung và DN Việt Nam nói riêng sẽ được hưởng lợi từ hội nhập kinh tế, ví dụ như tiếp cận nguồn vốn, duy trì năng lực cạnh tranh và phát triển một cách bền vững, phát triển đội ngũ nhân sự kiểm toán...

Kinh nghiệm triển khai IFRS ở nhiều quốc gia cho thấy, sau khi áp dụng IFRS, mức độ tin cậy về thông tin của các công ty niêm yết, cũng như thị trường tài chính nói chung, thị trường chứng khoán nói riêng ở các nước đó được giới đầu tư nước ngoài đánh giá cao. Điều này không chỉ giúp các thị trường này cải thiện khả năng thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài, mà còn giúp cho nền kinh tế và DN của các nước này giảm đáng kể chi phí phát hành cổ phiếu, trái phiếu để huy động vốn, do định mức tín nhiệm tăng cao.

Theo Đoàn Thị Thảo Uyên (2020), IFRS được ví như “ngôn ngữ tài chính toàn cầu” giúp đảm bảo tính so sánh, thống nhất và minh bạch, giúp DN tận dụng cơ hội tiếp cận nguồn vốn từ nhà đầu tư nước ngoài. Đối với các loại báo cáo hợp nhất áp dụng cho các công ty đa quốc gia với công ty con là DN Việt Nam, việc hoà hợp IFRS giúp cho việc hội nhập càng trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn bao giờ hết. Khi tiến hành giao thương, các DN Việt Nam dùng chung một ngôn ngữ chuẩn về kế toán với các DN trên thế giới sẽ mang lại nhiều thuận lợi hơn trong công tác hạch toán ghi nhận các nghiệp vụ. Hiểu biết về IFRS sẽ giúp DN có những thông tin hữu ích về các DN khác trong cùng ngành, có mức độ hoạt động tương đương ở các nước khác.

Riêng đối với DN vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mà công ty mẹ sử dụng IFRS, thì việc áp dụng IFRS là một yêu cầu bắt buộc nhằm phục vụ cho việc hợp nhất báo cáo ở công ty mẹ. Thông qua áp dụng IFRS, các công ty ở Việt Nam có thể được hưởng lợi từ hội nhập kinh tế như: sẽ được tiếp cận nguồn vốn, duy trì năng lực cạnh tranh và phát triển một cách bền vững. Điều này củng cố sự ổn định của nền kinh tế Việt Nam.

Việc áp dụng IFRS giúp tăng cường khả năng so sánh và tính minh bạch của hoạt động BCTC. Các BCTC có liên quan, có thể so sánh và phản ánh trung thực tình hình tài chính của tổ chức là điều mà các nhà đầu tư đang tìm kiếm trong việc đưa ra quyết định đầu tư. IFRS giúp đảm bảo tính thống nhất toàn cầu của chuẩn mực BCTC áp dụng cho các tổ chức trên các khu vực pháp lý khác nhau. Các BCTC lập theo IFRS được chấp nhận rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới. Các yếu tố này là điều kiện tiên quyết để Việt Nam tiếp cận thị trường vốn quốc tế.

Gần đây, Bộ Tài chính đã triển khai việc đào tạo các chuyên gia kế toán với định hướng vận dụng IFRS cho các DN Việt Nam. Rõ ràng, việc áp dụng chung chuẩn mực kế toán sẽ góp phần nâng cao tính minh bạch không chỉ trong các DN, mà còn trong các cơ quan ban ngành Chính phủ. Điều này giúp nâng cao hạng mức tín nhiệm của Việt Nam. Đồng thời, còn giúp cho các DN Việt Nam tiếp xúc với các nguồn tín dụng quốc tế như: ADB, World Bank… dễ dàng hơn.

Khó khăn, thách thức trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính theo IFRS

Về cơ bản, việc tiếp cận, lập và trình bày BCTC theo IFRS của DN Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều hạn chế như:

- Các DN Việt Nam hiện nay chỉ quen với cách thức hạch toán kế toán truyền thống, chưa có nhiều điều kiện tiếp cận với các IFRS và chưa chưa nhận thức được những ưu việt trong các IFRS.

- Xây dựng một đội ngũ nhân viên tài chính-kế toán có năng lực. Đây không phải là công việc dễ dàng, vì IFRS được xem là rất phức tạp, ngay cả ở những nền kinh tế phát triển. Phương pháp hạch toán các giao dịch theo IFRS dựa trên bản chất của giao dịch, do đó yêu cầu phải có xét đoán và đánh giá mang tính phân tích của cán bộ quản lý, những người sẽ tham vấn nhân viên kế toán.

- Nguồn nhân lực kế toán Việt Nam hiện nay chưa được đào tạo chuyên sâu về IFRS, đại bộ phận kế toán viên đều chưa được đào tạo về IFRS, nên sự sẵn sàng áp dụng IFRS còn hạn chế, nhiều DN có tâm lý ngại thay đổi. Trong khi, các cơ sở đào tạo tại Việt Nam hiện chưa có chương trình đào tạo về IFRS một cách hệ thống, dẫn đến nguồn lực lao động kế toán am hiểu về IFRS còn thiếu. (Hiện nay, chỉ có một vài trường đại học lớn triển khai các khoá về kế toán quốc tế theo nội dung của IFRS)…

- IFRS yêu cầu một số kỹ thuật phức tạp và thực hiện một số đánh giá mang tính chủ quan như: Việc thực hiện các ước tính về giá trị hợp lý khi không có giá niêm yết trên thị trường; Giá trị có thể thu hồi, tổn thất tài sản của đơn vị tạo tiền và lợi thế thương mại; Xác định giá trị hiện tại của dòng tiền tương lai… Trong khi, các hướng dẫn áp dụng IFRS chỉ mới tập trung vào phương pháp hạch toán.

- Việc áp dụng chuẩn mực BCTC quốc tế đối với DN Việt Nam gặp phải nhiều trở ngại về mặt ngôn ngữ, công nghệ và trình độ nhân lực… Rào cản ngôn ngữ là tiếng Anh và các thuật ngữ khó hiểu mang tính học thuật, ước lệ của từ vựng chuyên ngành kế toán gây ra không ít khó khăn cho người dạy, lẫn người học.

Để doanh nghiệp áp dụng IFRS thành công

Trước xu thế hội nhập và sự phát triển của thị trường vốn, cũng như yêu cầu về minh bạch, tin cậy thông tin tài chính trên BCTC của các DN, nhất là các DN niêm yết. Ngày 16/3/2020, Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 345/QĐ-BTC phê duyệt Đề án áp dụng IFRS, trong đó đề cập đến hướng đi cho Việt Nam, lộ trình áp dụng, biện pháp triển khai, thực hiện đến năm 2025. Trong đó, mục tiêu tổng quát đặt ra là nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tài chính, kế toán; Tạo

dựng công cụ quản lý hiệu lực, hiệu quả cho công tác quản trị, điều hành tại DN, cũng như việc quản lý, giám sát của cơ quan chức năng Nhà nước trong giai đoạn mới, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Đồng thời, góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả của các thông tin tài chính, nâng cao trách nhiệm giải trình của DN, bảo vệ môi trường kinh doanh, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, góp phần thúc đẩy hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với khu vực và thế giới.

Theo Quyết định số 345/QĐ-BTC, đến năm 2025 sẽ có 2 bộ chuẩn mực được ban hành và áp dụng cho các đối tượng khác nhau gồm: Bộ dịch từ IFRS và Bộ chuẩn mực BCTC Việt Nam (VFRS) được biên soạn dựa trên IFRS. Từ năm 2022-2025, IFRS sẽ được áp dụng tự nguyện cho BCTC hợp nhất của một số tập đoàn kinh tế nhà nước quy mô lớn; DN niêm yết; công ty đại chúng quy mô lớn chưa niêm yết và công ty có công ty mẹ là DN nước ngoài (FDI). Sau năm 2025, dựa vào tình hình của giai đoạn trước, IFRS sẽ được áp dụng bắt buộc cho một số loại hình DN.

Bên cạnh đó, VFRS, thay thế cho Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) hiện tại, dự kiến sẽ triển khai từ năm 2025 cho tất cả DN, trừ những DN đã áp dụng IFRS và DN nhỏ và vừa. Hiện nay, việc các nội dung liên quan đến nghiên cứu, áp dụng IFRS và VFRS đang được các bộ, ngành triển khai.

Về cơ bản, để áp dụng IFRS thành công, các DN Việt Nam cần chuẩn bị mọi nền tảng, thông qua 7 nhóm giải pháp chủ yếu sau:

Một là, xây dựng chiến lược và ngân sách: Việc xây dựng chiến lược và ngân sách đóng vai trò then chốt trong quá trình áp dụng IFRS. Là người quyết định việc áp dụng IFRS tại DN, chủ sở hữu DN phải xây dựng chiến lược phát triển, quyết định tính minh bạch và bố trí ngân sách cho việc triển khai áp dụng IFRS. Bên cạnh đó, cần xác định phương án, lộ trình cụ thể; Công bố thông tin về lộ trình, phương án áp dụng cho các nhà đầu tư; Thiết lập kênh thông tin với cơ quan hoạch định chính sách.

Theo các chuyên gia tài chính, việc áp dụng IFRS tại thời điểm này sẽ khó khăn hơn khi nguồn lực của hầu hết các DN bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 toàn cầu. Tuy nhiên, nếu dành một phần ngân sách thỏa đáng cùng chiến lược đúng đắn ngay từ đầu thì đây sẽ là một khoản đầu tư xứng đáng và đem lại lợi thế cạnh tranh cho DN về dài hạn. Các DN có tầm nhìn và sớm chuẩn bị nguồn lực áp dụng IFRS, khả năng tiếp cận nguồn vốn trung và dài hạn với chi phí thấp sẽ khả quan hơn.

Nhờ việc vận dụng IFRS, các DN có thể huy động vốn từ nhà đầu tư thông qua hình thức niêm yết cổ phiếu ở thị trường nước ngoài, huy động trái phiếu nước ngoài hoặc trực tiếp thực hiện các thương vụ mua bán, sáp nhập với quỹ đầu tư, tập đoàn nước ngoài. Đây sẽ là nguồn lực giúp DN tăng trưởng bền vững hơn trong giai đoạn kinh tế toàn cầu biến động.

Hai là, đào tạo nguồn nhân lực: Việc đào tạo nguồn nhân lực đóng vai trò rất quan trọng khi DN áp dụng IFRS. Hiện nay, hầu hết các kế toán viên và kiểm toán viên tại Việt Nam chưa có kinh nghiệm trong việc áp dụng IFRS, trong khi đó IFRS chứa đựng nhiều nội dung mới và phức tạp. Việc áp dụng nhiều khi trở nên khó và phức tạp đối với các DN tại các nền kinh thế phát triển, không riêng gì các nền kinh tế mới nổi.

Vì vậy, DN cần xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực kịp thời, bài bản, liên tục và lâu dài. Không những đào tạo cho bộ máy kế toán và còn phải trang bị kiến thức, hiểu biết cơ bản về tài chính cho ban giám đốc, cán bộ quản lý. Bên cạnh đó, về lâu dài, các DN cần chủ động trong việc hợp tác với các cơ sở đào tạo đại học cao đẳng để xây dựng chương trình đào tạo về kế toán, căn cứ vào lộ trình, phương án áp dụng, tổ chức các hoạt động đào tạo IFRS và VFRS...

Ba là, tổ chức bộ máy kế toán và xây dựng quy chế phối hợp giữa các bộ phận: Tổ chức bộ máy kế toán và xây dựng quy chế phối hợp giữa các bộ phận luôn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhà quản trị trong quá trình điều hành DN. Hoạt động của bộ máy kế toán chuyên nghiệp, sự phối hợp giữa các bộ phận thông suốt sẽ giúp cho nhà quản trị DN đưa ra các quyết định điều hành chính xác, hiệu quả.

Vì thế, để áp dụng IFRS thành công, DN cần nghiên cứu tái cấu trúc lại bộ máy kế toán DN, đặc biệt quan tâm đến tổ chức bộ máy kế toán một cách phù hợp, thông suốt từ công ty mẹ đến công ty con và các đơn vị trực thuộc. Trong điều kiện cho phép, DN cần tổ chức một bộ phận chuyên trách về IFRS nhưng có gắn kết, quan hệ chặt chẽ với các bộ phận khác để đảm bảo cung cấp thông tin về mô hình kinh doanh, hợp đồng kinh tế, dữ liệu tài chính cho đối tác và các cơ quan quản lý nhà nước.

Bốn là, xây dựng hệ thống công nghệ thông tin: Công nghệ thông tin ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và công tác kế toán tại DN nói riêng. Việc áp dụng công nghệ đã giúp hạn chế những sai sót trong hạch toán, giảm áp lực cho nhân viên kế toán, giảm thiểu chi phí thuê cán bộ kế toán... Tuy nhiên, việc lập BCTC tuân thủ IFRS cũng đòi hỏi các DN phải đầu tư nguồn vốn lớn để xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại.

Một hệ thống công nghệ thông tin hiện đại mới có thể đáp ứng các yêu cầu về ghi nhận/xử lý thông tin cho việc lập BCTC và các thuyết minh thống nhất giữa tất cả các đơn vị; Đáp ứng các yêu cầu về tổng hợp thông tin phục vụ cho mục đích hạch toán kế toán và trình bày thông tin; Đáp ứng việc xác định giá trị hợp lý của hàng tồn kho/tài sản cố định/phải thu/phải trả…; Xác định tổn thất tài sản cố định; Thông tin về giá trị các khoản đầu tư tài chính; Thông tin về chi phí hoàn nguyên môi trường...

Vì vậy, trong thời gian tới, để vận dụng IFRS hiệu quả, các DN Việt Nam cần xây dựng hệ thống công nghệ thông tin đủ mạnh để đảm bảo hiệu quả, hiệu lực của công tác quản trị nội bộ; Đảm bảo kết nối giủa bộ phận kế toán, tài chính và các bộ phận khác; Đảm bảo kết nối giữa công ty mẹ và các công ty con, đơn vị trực thuộc...

Năm là, xây dựng quy trình biến đổi BCTC từ Chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS sang IFRS: Hiện nay, phần lớn DN Việt Nam đang áp dụng VAS. Tuy nhiên, sự chênh lệch giữa IFRS và VAS là một trong những quan ngại hàng đầu mà các nhà đầu tư nước ngoài gặp phải khi tiếp cận DN trong nước. Để đưa ra quyết định đầu tư, nhà đầu tư phải mất thêm thời gian và chi phí “dịch” báo cáo ra “ngôn ngữ” của họ, đánh giá ảnh hưởng rồi lên kế hoạch quản lý khác biệt. Chỉ riêng vấn đề này đã làm chậm quyết định đầu tư của nhà đầu tư, do vậy, DN nên tự xây dựng cho mình một quy trình chuyển đổi BCTC bằng cách xác định sự khác biệt giữa VAS và IFRS; Nhận diện các giao dịch, khoản mục trên BCTC cần chuyển đổi.

Bên cạnh đó, chú trọng xây dựng hệ thống hồ sơ, dữ liệu mang tính kế thừa; Quy định trách nhiệm chuyển đổi BCTC phù hợp với đặc thù của đơn vị; Xây dựng bộ máy quy tắc chuyển đổi BTCT với hướng dẫn cụ thể cho DN...

Sáu là, xây dựng cơ sở hạ tầng dữ liệu: Xây dựng cơ sở hạ tầng dữ liệu để chuẩn bị cho việc vận dụng IFRS cũng rất quan trọng, bởi đó là nguyên liệu cho việc hoàn thành một báo cáo đúng với các tiêu chí đề ra. Hiện nay, công tác lưu trữ, hệ thống hóa và quản lý dữ liệu thường được các DN quy mô lớn triển khai và thực hiện tốt hơn, cũng như có lợi thế hơn về nguồn lực để triển khai. Vì thế, ngay từ đầu, việc xây dựng và hệ thống hóa cơ sở hạ tầng dữ liệu cần được DN quan tâm nhiều hơn, để tránh sau này khó khăn trong việc áp dụng IFRS.

Bảy là, chuẩn bị nền tảng kỹ thuật cho việc lập và trình bày BCTC theo IFRS: Nền tảng kỹ thuật cho việc lập và trình bày BCTC theo IFRS có nhiều yếu tố, bao gồm cả hạ tầng phần cứng lẫn phần mềm. Đây cũng là yếu tố mà DN cần chuẩn bị kỹ lưỡng để tạo sự thuận lợi trong quá trình vận dụng IFRS. Ngoài ra, các DN cần chủ động xây dựng kế hoạch chi tiết và tổ chức thực hiện phù hợp với lộ trình áp dụng IFRS, VFRS được Bộ Tài chính công bố.

Được biết, hiện nay, đã có nhiều DN đã bắt đầu nghiên cứu triển khai IFRS một cách bài bản, chuyên nghiệp như: Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, Công ty cổ phần Tập đoàn Lộc Trời, Công ty cổ phần Cơ Điện Lạnh REE, Công ty cổ phần VNG, Công ty cổ phần Hoàng Anh Gia Lai...

Tài liệu tham khảo:

Bộ Tài chính (2020), Quyết định số 345/QÐ-BTC Ngày 16/3/2020 về việc phê duyệt Ðề án áp dụng IFRS ;

Thái Thị Thu Trang (2020), Áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế ở các nước và vấn đề đặt ra với doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 05/2020;

Ðoàn Thị Thảo Uyên (2020), Vận dụng chuẩn mực lập báo cáo tài chính quốc tế để lập báo cáo tài chính tại các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Tài chính Kỳ 2 - Tháng 11/2020;

Tuấn Khánh (2020), Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế: Ngôn ngữ “hút” vốn ngoại, Báo Ðầu tư Chứng khoán.

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 4/2021