Độ mở của nền kinh tế dưới các góc nhìn
(Tài chính) Độ mở của nền kinh tế được nhận diện dưới các góc nhìn khác nhau, theo các phạm vi, chất lượng khác nhau.
Thứ nhất, thông qua chỉ tiêu xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ/GDP, có thể nhận diện về độ mở của kinh tế Việt Nam dưới một số góc nhìn khác nhau.
Một là, Việt Nam có độ mở khá cao và tăng lên tương đối nhanh. Độ mở này là kết quả của đường lối đổi mới và mở cửa hội nhập với thế giới trong điều kiện toàn cầu hóa và thế giới phẳng, của chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa. Đến năm 2013, đã có 22 mặt hàng đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên, trong đó có 2 mặt hàng đạt quy mô rất lớn (điện thoại các loại và linh kiện, dệt may...). Có 19 tỉnh/thành phố đạt từ 1 tỷ USD trở lên, trong đó cao nhất là TP.HCM, tiếp đến là Bắc Ninh, Bình Dương, Đồng Nai...
Trong gần 240 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với khoảng 180 thị trường; năm 2013 có 27 thị trường đạt từ 1 tỷ USD trở lên, trong đó cao nhất là Mỹ, tiếp đến là Nhật Bản, Trung Quốc... Độ mở rộng như trên vừa khai thác được thế mạnh của kinh tế trong nước, vừa tranh thủ được thị trường thế giới.
Hai là, với độ mở như trên, mọi biến động của thế giới sẽ tác động nhanh tới nền kinh tế ở trong nước, thậm chí dễ bị cuốn vào vòng xoáy của những biến động đó, đồng thời đòi hỏi phải có giải pháp tranh thủ các tác động tích cực, hạn chế các tác động tiêu cực đối với sự biến động của thế giới.
Ba là, độ mở của nền kinh tế còn nặng về số lượng, chất lượng còn thấp. Chất lượng thấp thể hiện ở tỷ trọng hàng thô, mới qua sơ chế và hàng gia công, lắp ráp trong tổng kim ngạch xuất khẩu còn lớn, công nghiệp phụ trợ chậm phát triển, nên giá trị gia tăng hàng xuất khẩu thấp, nhập khẩu nguyên phụ liệu còn lớn.
Bốn là, từ vài năm nay, Việt Nam đã chuyển từ nhập siêu lớn sang xuất siêu. Xuất siêu chủ yếu do nhập khẩu tăng chậm lại. Nhập siêu tăng chậm có một phần quan trọng do nhu cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh và tiêu dùng “co lại”, chứ chưa phải hoàn toàn do việc khắc phục các hạn chế trong sản xuất, xuất khẩu về cơ cấu, chất lượng hiệu quả, sức cạnh tranh, thương hiệu...
Năm là, độ mở khá và tăng nhanh có một phần quan trọng do sự đóng góp lớn của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tỷ trọng của kim ngạch xuất khẩu khu vực này chiếm 2/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Sáu là, xuất khẩu dịch vụ còn chiếm tỷ trọng khá thấp trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ và tỷ trọng này còn bị giảm (năm 2005 đạt 11,6%, năm 2010 còn 9,4%, năm 2013 còn 7,4%). Các tỷ trọng này thấp xa so với tỷ trọng GDP do nhóm ngành dịch vụ tạo ra trong tổng GDP (năm 2005 chiếm 42,57%, năm 2010 chiếm 42,88%, năm 2013 chiếm 43,31%). Tỷ lệ xuất khẩu dịch vụ/GDP của lĩnh vực nhập khẩu còn rất thấp; đã vậy tỷ trọng đó còn bị giảm (năm 2005 chiếm 7,4%, năm 2010 chiếm 6,7%, năm 2013 chiếm 6,1%).
Thứ hai, độ mở của nền kinh tế còn thể hiện ở tỷ trọng về nhiều chỉ tiêu khác của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong toàn bộ nền kinh tế của Việt Nam.
GDP do khu vực có vốn đầu tư nước ngoài/tổng GDP của cả nước từ chỗ chưa có gì, đến năm 2005 đạt 15,16%, năm 2010 đạt 17,69% và năm 2013 đạt 19,55%. Tỷ trọng này đang có xu hướng tăng lên, cùng với sự mở cửa hội nhập ngày một sâu rộng hơn, với tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực này cao hơn tốc độ tăng chung (thời kỳ 2006-2013 tăng 8,26%/năm so với tăng 6,06%/năm).
Giá trị sản xuất công nghiệp do khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra/tổng giá trị sản xuất ngành công nghiệp của cả nước tính theo giá thực tế, nếu năm 2005 mới đạt 43,8%, thì năm 2013 đã đạt 50,1%. Đáng lưu ý, tỷ trọng tính theo giá thực tế cao hơn tỷ trọng theo giá so sánh (47,2% soi với 43,3%), chứng tỏ giá thực tế của khu vực này đã tăng cao hơn và chiếm tỷ trọng lớn hơn trong thực tế.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)/tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt khá cao (bình quân của thời kỳ 1996-2000 là 21,6%, của thời kỳ 2001-2005 là 15,7%, của thời kỳ 2006-2010 là 25,3%, của thời kỳ 2011-2013 là 22,6%). Nếu kể cả vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) (giải ngân tính từ năm 1993 đến nay đạt trên 40 tỷ USD), vốn đầu tư gián tiếp (FII) (ước tính hiện ở mức 13 tỷ USD)…, thì tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội lên đến trên dưới 1/3, có năm còn cao hơn.
Như vậy, độ mở cửa của kinh tế Việt Nam khá cao, không chỉ thể hiện ở tỷ lệ xuất, nhập khẩu so với GDP, còn thể hiện ở việc mở cửa cho đầu tư nước ngoài trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế về nhiều mặt.