Chính sách ưu đãi thuế: Động lực chiến lược cho phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo
Chính sách ưu đãi thuế được xem là công cụ quan trọng để khuyến khích phát triển và giữ chân nguồn nhân lực, doanh nghiệp trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phóng viên Tạp chí Kinh tế - Tài chính có cuộc trao đổi với TS. Trần Trung Kiên, Giám đốc chương trình đào tạo Thuế, Khoa Tài chính công, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh (UEH) về nội dung này.
PV: Ông đánh giá thế nào về tác động của chính sách ưu đãi thuế đối với nhà khoa học và những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ, chuyển đổi số hiện nay.
TS. Trần Trung Kiên: Theo quan điểm cá nhân, chính sách thuế có thể coi là một trong những “đòn bẩy mềm” của Nhà nước trong việc thúc đẩy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Hiện nay, việc miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) cho các khoản đầu tư nghiên cứu - phát triển (R&D), hay ưu đãi thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của nhà khoa học, đều mang lại tác động tích cực.
Trước hết, về phía đội ngũ trí thức, chính sách này góp phần giảm gánh nặng tài chính, tạo thêm động lực để họ yên tâm cống hiến cho nghiên cứu. Trong bối cảnh thu nhập của nhiều nhà khoa học chưa thực sự tương xứng với công sức bỏ ra, việc được miễn, giảm thuế chính là sự ghi nhận và trân trọng từ phía Nhà nước.
Đối với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp khoa học công nghệ, khởi nghiệp sáng tạo, ưu đãi thuế giúp họ tăng khả năng đầu tư cho R&D, vốn là lĩnh vực tốn kém và rủi ro cao.
Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay chỉ dám đầu tư hạn chế cho R&D vì chi phí khấu trừ thuế chưa đủ hấp dẫn. Nếu chính sách thuế được điều chỉnh phù hợp, họ sẽ mạnh dạn hơn trong việc ứng dụng công nghệ mới, đổi mới quy trình sản xuất và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Quan trọng hơn, chính sách thuế không chỉ mang lại lợi ích tài chính trước mắt, mà còn là thông điệp chính sách dài hạn, cho thấy sự đồng hành của Nhà nước cùng giới khoa học và doanh nghiệp trên hành trình xây dựng nền kinh tế tri thức.
PV: Theo ông, cơ quan chức năng cần xây dựng, bổ sung những nội dung gì trong quá trình xây dựng chính sách thuế nhằm “giữ chân” nhà khoa học và hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này ?
TS. Trần Trung Kiên: Thứ nhất, các chính sách ưu đãi thuế cần được thiết kế theo hướng dài hạn và ổn định. Các dự án nghiên cứu khoa học cần có thời gian tương đối dài. Nếu chính sách thay đổi liên tục hoặc chỉ áp dụng trong ngắn hạn, nhà khoa học và doanh nghiệp sẽ khó yên tâm đầu tư.
Vì vậy, tôi đề nghị xây dựng các gói ưu đãi thuế phù hợp, gắn với nhiệm vụ khoa học công nghệ trọng điểm của quốc gia, có tính dự báo và cam kết ổn định trong nhiều năm.
Thứ hai, chính sách thuế nên được liên kết với các quỹ phát triển khoa học công nghệ hiện hành. Doanh nghiệp nào có chi phí cho đào tạo, hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ thì nên được hưởng ưu đãi khấu trừ thuế nhiều hơn. Điều này vừa khuyến khích họ đào tạo nhân lực chất lượng cao, vừa tạo sự lan tỏa trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Từ thực tế quốc tế cho thấy, nhiều quốc gia đã áp dụng cơ chế khấu trừ thuế rất tạo điều kiện cho chi phí R&D. Việt Nam hoàn toàn có thể tham khảo để điều chỉnh chính sách, nhằm nâng cao tính cạnh tranh trong thu hút đầu tư và nhân tài.
PV: Chính sách ưu đãi này có thể được mở rộng sang các lĩnh vực khác như y tế, giáo dục và chuyển đổi số theo lộ trình ra sao để vẫn đảm bảo mục tiêu và hiệu quả, thưa ông?
TS. Trần Trung Kiên: Tôi ủng hộ việc mở rộng chính sách nhưng phải đi theo lộ trình thí điểm - đánh giá - điều chỉnh - nhân rộng.
Trước mắt, ưu tiên của chính sách nên tập trung vào khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, bởi đây là lĩnh vực trọng yếu để đưa Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên kinh tế số. Khi chính sách đã chứng minh được hiệu quả, chúng ta có thể mở rộng sang y tế, giáo dục và những lĩnh vực có nhu cầu lớn về nguồn nhân lực chất lượng cao.

Chẳng hạn, trong lĩnh vực y tế, ưu đãi thuế có thể áp dụng cho đội ngũ bác sĩ, nhà nghiên cứu y sinh học tham gia đề tài nghiên cứu vaccine, công nghệ gen. Trong giáo dục, chính sách có thể hướng đến các giảng viên, nhà khoa học tham gia chương trình đổi mới giáo dục, phát triển EdTech. Trong chuyển đổi số, chính sách có thể áp dụng cho chuyên gia an ninh mạng, trí tuệ nhân tạo (AI) hoặc blockchain.
Như vậy, mở rộng chính sách không chỉ góp phần đa dạng hóa lĩnh vực được hưởng lợi, mà còn giúp Việt Nam xây dựng một lực lượng lao động chất lượng cao trên nhiều ngành mũi nhọn.
PV: Ông có kiến nghị gì về việc xây dựng những tiêu chí và cơ chế hậu kiểm nhằm đảm bảo chính sách được thực thi minh bạch và mang lại hiệu quả?
TS. Trần Trung Kiên: Tôi cho rằng việc xây dựng tiêu chí và cơ chế hậu kiểm cần dựa trên hai nguyên tắc: Rõ ràng và thuận tiện.
Tiêu chí phải cụ thể, dễ áp dụng, không để xảy ra tình trạng doanh nghiệp hay nhà khoa học “mơ hồ” về việc mình có thuộc diện được ưu đãi hay không. Ví dụ, văn bản pháp luật cần quy định rõ đối tượng được miễn giảm thuế là các nhà khoa học tham gia nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cấp nào, dự án như thế nào mới được hưởng ưu đãi, hay doanh nghiệp đầu tư R&D cần chứng nhận từ hội đồng chuyên môn hay không…
Về cơ chế hậu kiểm, tôi ủng hộ phương châm “hậu kiểm nhưng không gây phiền hà”. Thay vì kiểm tra quá nhiều giấy tờ, thủ tục, cơ quan thuế nên ứng dụng công nghệ số để giám sát và đánh giá minh bạch. Hệ thống dữ liệu có thể liên thông giữa Bộ Tài chính, Bộ Khoa học & Công nghệ và địa phương, tránh trùng lặp, tiết kiệm chi phí.
Cùng lúc, cần có sự tham gia của các hội đồng chuyên môn uy tín trong việc xác nhận đối tượng được hưởng ưu đãi, nhằm đảm bảo khách quan và hạn chế rủi ro lạm dụng chính sách.
Ngoài ra, công tác truyền thông cũng là yếu tố quan trọng để chính sách đi vào đời sống. Nếu người dân, doanh nghiệp và giới khoa học không hiểu rõ mục tiêu và ý nghĩa của chính sách, thì việc thực thi sẽ khó đạt hiệu quả như mong đợi.
Do đó, tôi đề xuất truyền thông cần đi theo hướng gần gũi, minh bạch và truyền cảm hứng. Các cơ quan chức năng nên đa dạng hóa kênh truyền thông, không chỉ dừng lại ở báo chí, truyền hình truyền thống mà còn tận dụng nền tảng số, hội thảo chuyên đề, diễn đàn khoa học công nghệ và cả mạng xã hội.
Thông điệp cũng cần nhấn mạnh rằng, đây không chỉ là chính sách thuế, mà là cam kết đồng hành của Chính phủ với nhà khoa học, doanh nghiệp và toàn xã hội trong công cuộc xây dựng nền kinh tế tri thức và quốc gia chuyển đổi số.
Xin cảm ơn ông !