Gắn bó máu thịt với nhân dân - Cội nguồn sức mạnh của Đảng
(Tài chính) Sinh thời, bằng tất cả sự quan tâm và trách nhiệm của người lãnh tụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo nhắc nhở cán bộ, đảng viên, các tổ chức cơ sở đảng và các cấp lãnh đạo phải luôn gắn bó, liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Người coi đây là nguyên tắc chỉ đạo hoạt động có tính sống còn của Đảng.
Đảng - Nhân dân là hai thành tố cơ bản gắn bó hữu cơ, là điều kiện cần và đủ cho một cuộc cách mạng. Giữa Đảng với nhân dân phải có sự nương tựa vào nhau để thực hiện những vai trò và chức năng thông qua nhau. Như vậy, quan hệ giữa Đảng với nhân dân được hình thành là do đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng.
Đấu tranh vì lợi ích của giai cấp và của nhân dân là mục đích hoạt động, là lý do để tồn tại và là lẽ sống của Đảng. Đảng trở thành đại biểu cho lợi ích của giai cấp và của nhân dân. Tính giai cấp là nội dung hình thành quy định bản chất của một Đảng chính trị. Cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân cùng với các giai cấp lao động khác (đều là nạn nhân của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa) tiến hành để đánh đổ kẻ thù chung, trở thành đồng minh tự nhiên của nhau vì có sự thống nhất lợi ích khi tham gia cách mạng. Là lực lượng lãnh đạo cách mạng, giai cấp công nhân không chỉ đấu tranh để giải phóng cho mình mà đồng thời giải phóng cho tất cả các giai cấp bị áp bức. Vì vậy, tính giai cấp và tính nhân dân gắn kết chặt chẽ với nhau tạo nên đặc trưng cơ bản của các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ra đời từ một nước thuộc địa phong kiến, giai cấp công nhân Việt Nam muốn thực hiện được sứ mệnh giải phóng phải đánh đổ cả thực dân, đế quốc và phong kiến tay sai để xây dựng xã hội mới. Giải phóng giai cấp được thực hiện đồng thời với giải phóng dân tộc; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là ngọn cờ xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Trong tiến trình đó, lợi ích của giai cấp, của nhân dân lao động và của cả dân tộc thống nhất hài hòa với nhau, vì vậy “Đảng ta là Đảng của giai cấp đồng thời cũng là Đảng của dân tộc”.
Nhân dân chỉ tin và đi theo Đảng làm cách mạng khi thấy lợi ích của mình được đem lại. Là đại biểu cho lợi ích của giai cấp và của nhân dân, Đảng phải hết lòng, hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, từ đó được nhân dân gửi gắm niềm tin yêu kính phục; cũng nhờ đó mà Đảng xác lập được chỗ đứng vững chắc trong lòng dân và trở thành bất diệt. Điều đó đòi hỏi mọi quyết sách của Đảng phải được xuất phát từ lợi ích của nhân dân và bằng thực tiễn hoạt động của mình, Đảng phải trở thành tấm gương để nhân dân soi rọi tìm thấy lợi của mình hội tụ trong đó. Nói cách khác, nhân dân là đối tượng phục vụ của Đảng; phục vụ lợi ích của nhân dân là mục đích, tôn chỉ của Đảng. “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng” (1).
Phụng sự lợi ích cho nhân dân, đường lối, chủ trương của Đảng sẽ đi vào lòng dân, được nhân dân hưởng ứng đón nhận và tự giác thực hiện, vai trò lãnh đạo của Đảng qua đó mới được thực hiện trên thực tế. Vì vậy, trong mối quan hệ với nhân dân, Đảng là người lãnh đạo và là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Tư tưởng coi trọng mối liên hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn được xuất phát từ nền tảng của thế giới quan và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa, coi nhân dân lao động là người làm nên lịch sử, là chủ thể sáng tạo của các giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của nhân dân, do chính nhân dân thực hiện để đáp ứng lợi ích của nhân dân. Người luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải tin tưởng nhân dân, phải biết dựa vào nhân dân vì “dễ vạn lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Tiếp thu những giá trị nhân đạo nhân văn sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, coi mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là để giải phóng cho nhân dân thoát khỏi xiềng xích áp bức và xác lập địa vị nhân dân là người chủ xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho nhân dân những tình cảm trân trọng “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”. Người căn dặn: đảng viên phải làm cho dân tin, dân phục; và: chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta.
Lực lượng của nhân dân vô cùng vĩ đại, khả năng sáng tạo của nhân dân là vô tận. Nhân dân là kho tàng khổng lồ chứa đựng những kinh nghiệm và là nguồn phát sinh những sáng tạo mới, là nơi cung cấp những tri thức thực tiễn cho Đảng. Nhân dân là trường học cách mạng lớn, là địa bàn học tập thực thụ cho cán bộ, đảng viên. Đảng gắn bó với nhân dân vì Đảng “chẳng những phải lãnh đạo quần chúng mà phải học hỏi quần chúng” (2).
Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra đường lối và tổ chức thực hiện. Nhân dân sẽ tham gia trong vai trò là chủ thể trực tiếp của các quá trình hoạt động thực tiễn, sẽ là người phát hiện, kiểm tra tính đúng đắn và sự phù hợp đối với đường lối của Đảng. Nhân dân không chỉ là người thực thi thụ động mà còn đóng vai trò phản biện các chủ trương, chính sách của Đảng. Là một bên chủ thể trong quan hệ với Đảng, nhân dân còn là người giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, việc chấp hành pháp luật của Nhà nước cũng như tư cách đạo đức của các cán bộ, đảng viên. Bằng sự phản ánh của mình, nhân dân thực hiện chức năng phê bình đối với Đảng, trên cơ sở đó, Đảng “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức” (3).
Luận điểm “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” đã nói lên vai trò, vị trí cực kỳ quan trọng của nhân dân và quan hệ Đảng - Nhân dân có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng. Trong mối quan hệ đó, nhân dân là môi trường sống, là nguồn dưỡng chất cho Đảng tồn tại và phát triển. Sức mạnh của Đảng được bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân. Nói cách khác, chính nhân dân là nguồn tiếp cho Đảng sức mạnh thực hiện sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân làm cách mạng. Vì vậy, gắn bó với nhân dân là thuộc tính tự nhiên, là bản chất đặc trưng của chính đảng mác-xít, phải trở thành nguyên tắc hoạt động hàng đầu của Đảng. Xa rời nhân dân cũng có nghĩa là xa rời bản chất cách mạng của Đảng. Mức độ gắn bó với nhân dân đã trở thành tiêu chí đánh giá mức độ đậm nhạt về bản chất cách mạng của Đảng.
Đánh giá tầm quan trọng đặc biệt của mối quan hệ Đảng - Nhân dân trên cơ sở nhìn nhận vai trò cách mạng to lớn của nhân dân đã thể hiện tinh thần dân chủ sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là sự khác biệt hoàn toàn của cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với các cuộc cách mạng tư sản vì ở đó nhân dân lao động được xem là phương tiện chứ không phải là mục tiêu; và quan hệ giữa giai cấp tư sản, nhân dân lao động là quan hệ thống trị - bị trị, đối lập hoàn toàn với nhau về lợi ích.
Tư tưởng gần gũi gắn bó với nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở niềm tin yêu kính trọng nhân dân mà nội dung thể hiện là sự hết lòng phụng sự lợi ích của nhân dân. Nó đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, chí công vô tư.
Chỉ ra ý nghĩa sống còn của mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân, coi đây là cơ sở sức mạnh bảo đảm thắng lợi của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vạch ra những hậu quả khôn lường khi nguyên tắc hoạt động này của Đảng bị vi phạm và mối quan hệ Đảng - Nhân dân bị phá vỡ: khi Đảng xa dân nhất định sẽ bị đơn độc và đi đến diệt vong về chính trị; “… ta phải liên lạc mật thiết với dân chúng. Không được xa rời dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định bị thất bại” (4).
Cách mạng nước ta đến nay đã trải qua những chặng đường vẻ vang: đánh đổ chế độ phong kiến thực dân, đấu tranh giành độc lập dân tộc, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội và đang tiến hành công cuộc đổi mới. Qua mỗi giai đoạn cách mạng, tư tưởng gắn bó với nhân dân của Đảng đã được cụ thể hóa bằng các hình thức tổ chức: Mặt trận Dân chủ Đông Dương, Mặt trận Liên - Việt, Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh đoàn kết nhất trí của toàn dân dưới ngọn cờ Đảng. Lịch sử đấu tranh oanh liệt của Đảng để đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân đã chứng tỏ rằng: “Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi ích gì khác”(5), bởi vì, Đảng ta là con nòi xuất thân từ giai cấp lao động, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ.
Toàn bộ thực tiễn phong phú và sinh động của cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo trong hơn 85 năm qua là sự kiểm nghiệm rõ ràng và minh chứng hùng hồn cho tư tưởng của Hồ Chí Minh về sự gắn bó giữa Đảng với nhân dân. Đó là nhân tố hết sức quan trọng bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, được thực tế chứng minh khi cách mạng thành công cũng như lúc đứng trước khó khăn, thử thách. Đặc biệt, trải qua gần 30 năm, công cuộc đổi mới của chúng ta đã thu được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, tạo ra thế và lực để bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những bài học kinh nghiệm, đặc biệt là bài học đổi mới phải dựa vào nhân dân, phát huy sức mạnh của nhân dân, vì lợi ích của nhân dân là những nguồn lực vô tận để đưa đất nước tiến lên. Tuy nhiên, tình trạng quan liêu đã xuất hiện với những biểu hiện như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đã chỉ rõ: “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc... Ở nhiều nơi: các nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”, “tập trung dân chủ”, “tự phê bình và phê bình” bị buông lỏng hoặc rơi vào hình thức; cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân; kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ; chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát triển…
Quan liêu là biểu hiện suy thoái của Đảng, “là kẻ thù của nhân dân... là đồng minh của thực dân phong kiến”(6), làm tha hóa quyền lực chính trị của nhân dân và băng hoại nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; làm tê liệt mối quan hệ Đảng - Nhân dân, hao mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đẩy Đảng ngày một xa dân và có nguy cơ đưa nhân dân đối lập với Đảng; “nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính”, thực sự là thứ nội thù nguy hiểm vì nó nằm ngay trong tổ chức của ta mà kẻ thù bên ngoài muốn lật đổ ta thì phải thông qua nó mới thực hiện được. Vì vậy, chống quan liêu là cuộc đấu tranh với ngay chính bản thân Đảng để Đảng trở nên trong sạch, vững mạnh và phát huy bản chất cách mạng, xứng đáng với niềm tin cậy của nhân dân. Mác - Ăng-ghen chỉ ra rằng: quan liêu hóa là nguy cơ thường trực của tất cả các nhà nước, của mọi quyền lực chính trị. Căn bệnh đã luôn tiềm ẩn khả năng phát sinh trong quá trình hoạt động của Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền - tức là khi đã nắm được quyền lực nhà nước. Khi đó, trong Đảng dễ nảy sinh tư tưởng say sưa thỏa mãn với những thắng lợi đã đạt được, xuất hiện tâm lý đòi hưởng thụ và bị mất đi điều kiện thực tiễn khắc nghiệt để thử thách và rèn dũa đạo đức cách mạng. Do đó, đấu tranh chống quan liêu mệnh lệnh phải là nhiệm vụ thường xuyên thông qua tự phê bình và phê bình để giải quyết mâu thuẫn biện chứng trong quá trình phát triển của Đảng.
Từ góc độ mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân, công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay phải quán triệt theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI và hướng vào những vấn đề sau đây:
- Tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức tư tưởng, đạo đức lối sống và lý tưởng cách mạng, đề cao tinh thần phục vụ nhân dân theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng ắt từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng; coi trọng năng lực thực tiễn trong việc đánh giá sắp xếp cán bộ, nhất là cán bộ ở cấp cơ sở trực tiếp quan hệ với nhân dân, đề cao ý thức kỷ luật và sự tuân thủ pháp luật nhà nước: đảng viên nói và làm theo nghị quyết của Đảng; tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo hướng hiệu quả, thiết thực. Phát động nhân dân tham gia đóng góp ý kiến phê bình, tạo ra sức mạnh của toàn xã hội chống quan liêu, tham nhũng. Thực hiện tốt Quy chế Dân chủ cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia và phát huy vai trò chủ động tích cực trong quản lý nhà nước và giải quyết các vấn đề xã hội, thực sự là chủ thể của quyền lực chính trị. Trong Đảng thực hiện nghiêm túc việc phê bình và tự phê bình, nhất là đối với những cán bộ, đảng viên nắm chức vụ quan trọng; tiến hành sàng lọc cán bộ, kiên quyết loại bỏ các phần tử thoái hóa, biến chất ra khỏi bộ máy của Đảng và chính quyền.
- Quán triệt phương châm “Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, tôn trọng quy luật khách quan” để đặt tầm nhìn chính trị vào thực tiễn (dân tộc và thời đại) vận động theo quy luật khách quan, khắc phục khuynh hướng giáo điều sách vở và cơ hội chính trị trong bộ máy cầm quyền. Tiếp tục làm rõ mối quan hệ giữa “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” để xây dựng cơ chế quản lý kinh tế và quản lý xã hội theo các nguyên tắc khoa học, dân chủ và pháp quyền và khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong tổ chức quản lý nhằm hạn chế những nguyên nhân, điều kiện phát sinh vi phạm pháp luật. Đặc biệt, xử lý mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế với chính trị hiện nay đòi hỏi Đảng phải tập trung lãnh đạo hoàn thiện thể chế Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với đổi mới Hệ thống chính trị theo hướng nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở tổ chức, phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong thiết kế, xây dựng bộ máy nhà nước; bảo đảm thực lực và thực quyền trong quản lý, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền và cả hệ thống chính trị thông qua việc đề ra đường lối và giới thiệu các cán bộ, đảng viên vào các chức vụ nhà nước. Do vậy, xây dựng Đảng phải được thực hiện ngay trong bộ máy nhà nước, gắn với các công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí, sắp xếp cán bộ, cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thực hiện nghiêm chủ trương Đảng lãnh đạo toàn diện bằng đường lối, chính sách vĩ mô, lãnh đạo lập hiến, lập pháp và cơ chế để lựa chọn được cán bộ giỏi cho sự nghiệp cách mạng, cần tập trung xây dựng bộ máy chuyên trách có trí tuệ thật sự của Đảng.
Mục tiêu của xây dựng Đảng là để củng cố niềm tin trong nhân dân, tạo được sức mạnh đoàn kết nhất trí của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đổi mới, để Đảng thực sự là đại biểu cho trí tuệ và niềm tin, mãi mãi là Đảng của nhân dân. Không có gì khác hơn, đó là sự song hành của ĐẠO ĐỨC và TRÍ TUỆ và được nâng lên ở tầm cao mới, sẽ là cơ sở và ngọn nguồn sức mạnh để Đảng phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị và tiếp thêm xung lực trong hành trình Đổi mới, giành lấy những thắng lợi mới vinh quang. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân ta làm nên những thắng lợi vẻ vang và đang tiếp tục soi sáng cho chúng ta trong đợt xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày nay./.
Đấu tranh vì lợi ích của giai cấp và của nhân dân là mục đích hoạt động, là lý do để tồn tại và là lẽ sống của Đảng. Đảng trở thành đại biểu cho lợi ích của giai cấp và của nhân dân. Tính giai cấp là nội dung hình thành quy định bản chất của một Đảng chính trị. Cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân cùng với các giai cấp lao động khác (đều là nạn nhân của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa) tiến hành để đánh đổ kẻ thù chung, trở thành đồng minh tự nhiên của nhau vì có sự thống nhất lợi ích khi tham gia cách mạng. Là lực lượng lãnh đạo cách mạng, giai cấp công nhân không chỉ đấu tranh để giải phóng cho mình mà đồng thời giải phóng cho tất cả các giai cấp bị áp bức. Vì vậy, tính giai cấp và tính nhân dân gắn kết chặt chẽ với nhau tạo nên đặc trưng cơ bản của các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ra đời từ một nước thuộc địa phong kiến, giai cấp công nhân Việt Nam muốn thực hiện được sứ mệnh giải phóng phải đánh đổ cả thực dân, đế quốc và phong kiến tay sai để xây dựng xã hội mới. Giải phóng giai cấp được thực hiện đồng thời với giải phóng dân tộc; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là ngọn cờ xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Trong tiến trình đó, lợi ích của giai cấp, của nhân dân lao động và của cả dân tộc thống nhất hài hòa với nhau, vì vậy “Đảng ta là Đảng của giai cấp đồng thời cũng là Đảng của dân tộc”.
Nhân dân chỉ tin và đi theo Đảng làm cách mạng khi thấy lợi ích của mình được đem lại. Là đại biểu cho lợi ích của giai cấp và của nhân dân, Đảng phải hết lòng, hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, từ đó được nhân dân gửi gắm niềm tin yêu kính phục; cũng nhờ đó mà Đảng xác lập được chỗ đứng vững chắc trong lòng dân và trở thành bất diệt. Điều đó đòi hỏi mọi quyết sách của Đảng phải được xuất phát từ lợi ích của nhân dân và bằng thực tiễn hoạt động của mình, Đảng phải trở thành tấm gương để nhân dân soi rọi tìm thấy lợi của mình hội tụ trong đó. Nói cách khác, nhân dân là đối tượng phục vụ của Đảng; phục vụ lợi ích của nhân dân là mục đích, tôn chỉ của Đảng. “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng” (1).
Phụng sự lợi ích cho nhân dân, đường lối, chủ trương của Đảng sẽ đi vào lòng dân, được nhân dân hưởng ứng đón nhận và tự giác thực hiện, vai trò lãnh đạo của Đảng qua đó mới được thực hiện trên thực tế. Vì vậy, trong mối quan hệ với nhân dân, Đảng là người lãnh đạo và là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Tư tưởng coi trọng mối liên hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn được xuất phát từ nền tảng của thế giới quan và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa, coi nhân dân lao động là người làm nên lịch sử, là chủ thể sáng tạo của các giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của nhân dân, do chính nhân dân thực hiện để đáp ứng lợi ích của nhân dân. Người luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải tin tưởng nhân dân, phải biết dựa vào nhân dân vì “dễ vạn lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Tiếp thu những giá trị nhân đạo nhân văn sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, coi mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là để giải phóng cho nhân dân thoát khỏi xiềng xích áp bức và xác lập địa vị nhân dân là người chủ xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho nhân dân những tình cảm trân trọng “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”. Người căn dặn: đảng viên phải làm cho dân tin, dân phục; và: chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta.
Lực lượng của nhân dân vô cùng vĩ đại, khả năng sáng tạo của nhân dân là vô tận. Nhân dân là kho tàng khổng lồ chứa đựng những kinh nghiệm và là nguồn phát sinh những sáng tạo mới, là nơi cung cấp những tri thức thực tiễn cho Đảng. Nhân dân là trường học cách mạng lớn, là địa bàn học tập thực thụ cho cán bộ, đảng viên. Đảng gắn bó với nhân dân vì Đảng “chẳng những phải lãnh đạo quần chúng mà phải học hỏi quần chúng” (2).
Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra đường lối và tổ chức thực hiện. Nhân dân sẽ tham gia trong vai trò là chủ thể trực tiếp của các quá trình hoạt động thực tiễn, sẽ là người phát hiện, kiểm tra tính đúng đắn và sự phù hợp đối với đường lối của Đảng. Nhân dân không chỉ là người thực thi thụ động mà còn đóng vai trò phản biện các chủ trương, chính sách của Đảng. Là một bên chủ thể trong quan hệ với Đảng, nhân dân còn là người giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, việc chấp hành pháp luật của Nhà nước cũng như tư cách đạo đức của các cán bộ, đảng viên. Bằng sự phản ánh của mình, nhân dân thực hiện chức năng phê bình đối với Đảng, trên cơ sở đó, Đảng “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức” (3).
Luận điểm “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” đã nói lên vai trò, vị trí cực kỳ quan trọng của nhân dân và quan hệ Đảng - Nhân dân có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng. Trong mối quan hệ đó, nhân dân là môi trường sống, là nguồn dưỡng chất cho Đảng tồn tại và phát triển. Sức mạnh của Đảng được bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân. Nói cách khác, chính nhân dân là nguồn tiếp cho Đảng sức mạnh thực hiện sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân làm cách mạng. Vì vậy, gắn bó với nhân dân là thuộc tính tự nhiên, là bản chất đặc trưng của chính đảng mác-xít, phải trở thành nguyên tắc hoạt động hàng đầu của Đảng. Xa rời nhân dân cũng có nghĩa là xa rời bản chất cách mạng của Đảng. Mức độ gắn bó với nhân dân đã trở thành tiêu chí đánh giá mức độ đậm nhạt về bản chất cách mạng của Đảng.
Đánh giá tầm quan trọng đặc biệt của mối quan hệ Đảng - Nhân dân trên cơ sở nhìn nhận vai trò cách mạng to lớn của nhân dân đã thể hiện tinh thần dân chủ sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là sự khác biệt hoàn toàn của cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với các cuộc cách mạng tư sản vì ở đó nhân dân lao động được xem là phương tiện chứ không phải là mục tiêu; và quan hệ giữa giai cấp tư sản, nhân dân lao động là quan hệ thống trị - bị trị, đối lập hoàn toàn với nhau về lợi ích.
Tư tưởng gần gũi gắn bó với nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở niềm tin yêu kính trọng nhân dân mà nội dung thể hiện là sự hết lòng phụng sự lợi ích của nhân dân. Nó đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, chí công vô tư.
Chỉ ra ý nghĩa sống còn của mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân, coi đây là cơ sở sức mạnh bảo đảm thắng lợi của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vạch ra những hậu quả khôn lường khi nguyên tắc hoạt động này của Đảng bị vi phạm và mối quan hệ Đảng - Nhân dân bị phá vỡ: khi Đảng xa dân nhất định sẽ bị đơn độc và đi đến diệt vong về chính trị; “… ta phải liên lạc mật thiết với dân chúng. Không được xa rời dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định bị thất bại” (4).
Cách mạng nước ta đến nay đã trải qua những chặng đường vẻ vang: đánh đổ chế độ phong kiến thực dân, đấu tranh giành độc lập dân tộc, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội và đang tiến hành công cuộc đổi mới. Qua mỗi giai đoạn cách mạng, tư tưởng gắn bó với nhân dân của Đảng đã được cụ thể hóa bằng các hình thức tổ chức: Mặt trận Dân chủ Đông Dương, Mặt trận Liên - Việt, Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh đoàn kết nhất trí của toàn dân dưới ngọn cờ Đảng. Lịch sử đấu tranh oanh liệt của Đảng để đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân đã chứng tỏ rằng: “Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi ích gì khác”(5), bởi vì, Đảng ta là con nòi xuất thân từ giai cấp lao động, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ.
Toàn bộ thực tiễn phong phú và sinh động của cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo trong hơn 85 năm qua là sự kiểm nghiệm rõ ràng và minh chứng hùng hồn cho tư tưởng của Hồ Chí Minh về sự gắn bó giữa Đảng với nhân dân. Đó là nhân tố hết sức quan trọng bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, được thực tế chứng minh khi cách mạng thành công cũng như lúc đứng trước khó khăn, thử thách. Đặc biệt, trải qua gần 30 năm, công cuộc đổi mới của chúng ta đã thu được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, tạo ra thế và lực để bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những bài học kinh nghiệm, đặc biệt là bài học đổi mới phải dựa vào nhân dân, phát huy sức mạnh của nhân dân, vì lợi ích của nhân dân là những nguồn lực vô tận để đưa đất nước tiến lên. Tuy nhiên, tình trạng quan liêu đã xuất hiện với những biểu hiện như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đã chỉ rõ: “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc... Ở nhiều nơi: các nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”, “tập trung dân chủ”, “tự phê bình và phê bình” bị buông lỏng hoặc rơi vào hình thức; cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân; kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ; chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát triển…
Quan liêu là biểu hiện suy thoái của Đảng, “là kẻ thù của nhân dân... là đồng minh của thực dân phong kiến”(6), làm tha hóa quyền lực chính trị của nhân dân và băng hoại nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; làm tê liệt mối quan hệ Đảng - Nhân dân, hao mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đẩy Đảng ngày một xa dân và có nguy cơ đưa nhân dân đối lập với Đảng; “nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính”, thực sự là thứ nội thù nguy hiểm vì nó nằm ngay trong tổ chức của ta mà kẻ thù bên ngoài muốn lật đổ ta thì phải thông qua nó mới thực hiện được. Vì vậy, chống quan liêu là cuộc đấu tranh với ngay chính bản thân Đảng để Đảng trở nên trong sạch, vững mạnh và phát huy bản chất cách mạng, xứng đáng với niềm tin cậy của nhân dân. Mác - Ăng-ghen chỉ ra rằng: quan liêu hóa là nguy cơ thường trực của tất cả các nhà nước, của mọi quyền lực chính trị. Căn bệnh đã luôn tiềm ẩn khả năng phát sinh trong quá trình hoạt động của Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền - tức là khi đã nắm được quyền lực nhà nước. Khi đó, trong Đảng dễ nảy sinh tư tưởng say sưa thỏa mãn với những thắng lợi đã đạt được, xuất hiện tâm lý đòi hưởng thụ và bị mất đi điều kiện thực tiễn khắc nghiệt để thử thách và rèn dũa đạo đức cách mạng. Do đó, đấu tranh chống quan liêu mệnh lệnh phải là nhiệm vụ thường xuyên thông qua tự phê bình và phê bình để giải quyết mâu thuẫn biện chứng trong quá trình phát triển của Đảng.
Từ góc độ mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân, công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay phải quán triệt theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI và hướng vào những vấn đề sau đây:
- Tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức tư tưởng, đạo đức lối sống và lý tưởng cách mạng, đề cao tinh thần phục vụ nhân dân theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng ắt từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng; coi trọng năng lực thực tiễn trong việc đánh giá sắp xếp cán bộ, nhất là cán bộ ở cấp cơ sở trực tiếp quan hệ với nhân dân, đề cao ý thức kỷ luật và sự tuân thủ pháp luật nhà nước: đảng viên nói và làm theo nghị quyết của Đảng; tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo hướng hiệu quả, thiết thực. Phát động nhân dân tham gia đóng góp ý kiến phê bình, tạo ra sức mạnh của toàn xã hội chống quan liêu, tham nhũng. Thực hiện tốt Quy chế Dân chủ cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia và phát huy vai trò chủ động tích cực trong quản lý nhà nước và giải quyết các vấn đề xã hội, thực sự là chủ thể của quyền lực chính trị. Trong Đảng thực hiện nghiêm túc việc phê bình và tự phê bình, nhất là đối với những cán bộ, đảng viên nắm chức vụ quan trọng; tiến hành sàng lọc cán bộ, kiên quyết loại bỏ các phần tử thoái hóa, biến chất ra khỏi bộ máy của Đảng và chính quyền.
- Quán triệt phương châm “Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, tôn trọng quy luật khách quan” để đặt tầm nhìn chính trị vào thực tiễn (dân tộc và thời đại) vận động theo quy luật khách quan, khắc phục khuynh hướng giáo điều sách vở và cơ hội chính trị trong bộ máy cầm quyền. Tiếp tục làm rõ mối quan hệ giữa “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” để xây dựng cơ chế quản lý kinh tế và quản lý xã hội theo các nguyên tắc khoa học, dân chủ và pháp quyền và khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong tổ chức quản lý nhằm hạn chế những nguyên nhân, điều kiện phát sinh vi phạm pháp luật. Đặc biệt, xử lý mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế với chính trị hiện nay đòi hỏi Đảng phải tập trung lãnh đạo hoàn thiện thể chế Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với đổi mới Hệ thống chính trị theo hướng nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở tổ chức, phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong thiết kế, xây dựng bộ máy nhà nước; bảo đảm thực lực và thực quyền trong quản lý, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền và cả hệ thống chính trị thông qua việc đề ra đường lối và giới thiệu các cán bộ, đảng viên vào các chức vụ nhà nước. Do vậy, xây dựng Đảng phải được thực hiện ngay trong bộ máy nhà nước, gắn với các công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí, sắp xếp cán bộ, cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thực hiện nghiêm chủ trương Đảng lãnh đạo toàn diện bằng đường lối, chính sách vĩ mô, lãnh đạo lập hiến, lập pháp và cơ chế để lựa chọn được cán bộ giỏi cho sự nghiệp cách mạng, cần tập trung xây dựng bộ máy chuyên trách có trí tuệ thật sự của Đảng.
Mục tiêu của xây dựng Đảng là để củng cố niềm tin trong nhân dân, tạo được sức mạnh đoàn kết nhất trí của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đổi mới, để Đảng thực sự là đại biểu cho trí tuệ và niềm tin, mãi mãi là Đảng của nhân dân. Không có gì khác hơn, đó là sự song hành của ĐẠO ĐỨC và TRÍ TUỆ và được nâng lên ở tầm cao mới, sẽ là cơ sở và ngọn nguồn sức mạnh để Đảng phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị và tiếp thêm xung lực trong hành trình Đổi mới, giành lấy những thắng lợi mới vinh quang. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân ta làm nên những thắng lợi vẻ vang và đang tiếp tục soi sáng cho chúng ta trong đợt xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày nay./.