"Gạn đục khơi trong" luồng vốn FDI

Theo Tri Nhân/thoibaonganhang.vn

Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), để cơ cấu lại chính sách, gạn đục khơi trong luồng vốn và xử lý các vấn đề phát sinh…

Thực tế, FDI là khu vực tăng trưởng cao nhất trong nền kinh tế. Nguồn: internet
Thực tế, FDI là khu vực tăng trưởng cao nhất trong nền kinh tế. Nguồn: internet

FDI đang là ốc đảo

Mặc dù đánh giá cao vai trò của dòng vốn FDI, nhưng TS. Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vẫn tỏ ra băn khoăn khi bên cạnh những kết quả đạt được, hiệu quả của dòng vốn này vẫn chưa đạt kỳ vọng. Thực tế, FDI là khu vực tăng trưởng cao nhất trong nền kinh tế, có đóng góp quan trọng cho kinh tế Việt Nam với số vốn đầu tư đã đạt gần 350 tỷ USD, bình quân tăng trên 20%/năm. Nhưng vẫn còn những tồn tại, hạn chế và phát sinh những vấn đề mới.

“DN FDI tồn tại như một ốc đảo trong nền kinh tế Việt Nam, sự liên kết giữa các DN FDI và DN trong nước rất yếu. Nếu có biến động họ có thể dịch chuyển dễ dàng, không đảm bảo tính phát triển bền vững”, TS. Lộc cho biết.

Theo đó, hiện chỉ có 14% DN nội địa cho biết họ có giao dịch với DN FDI; 28% DN FDI có mua hàng của DN nội địa, trong đó cũng có nhiều DN bản chất là vốn nước ngoài. Mặc dù xét về số vốn đầu tư FDI/dân số Việt Nam đứng thứ hai trong khu vực chỉ  sau Singapore, song về chất lượng là chưa thành công khi hiệu quả của đầu tư FDI chưa tương xứng với số lượng dòng vốn chảy vào nền kinh cũng như đáp ứng sự mong đợi về tính lan tỏa công nghệ hay liên kết, kết nối với khu vực DN trong nước.

“Thu hút đầu tư FDI nếu không được lựa chọn sẽ không đạt mục tiêu kết nối và thậm chí còn “chèn lấn” khu vực kinh tế tư nhân”, Chủ tịch VCCI phát biểu. Bên cạnh đó còn nhiều DN FDI có hiện tượng chuyển giá, gian lận thương mại…

Vì thế, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 là hết sức cần thiết và kịp thời. Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Vũ Đại Thắng nhấn mạnh, Nghị quyết 50 đã định vị lại rõ ràng vị trí, vai trò của khu vực đầu tư nước ngoài là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác.

Nghị quyết đưa ra các mục tiêu cụ thể về FDI giai đoạn tới ở mức độ vừa phải, có sự tính toán kỹ để tránh khu vực FDI lấn át khu vực DN trong nước, để vốn đăng ký và vốn thực hiện “quan hệ hữu cơ” với nền kinh tế, theo đó khu vực FDI sẽ thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, đảm bảo ổn định an ninh kinh tế - xã hội trong nước.

Vì lẽ đó, những giải pháp của Nghị quyết 50 là “vừa kéo vừa đẩy”. Đó là để đảm bảo tính kết nối, liên thông giữa khu vực DN FDI và DN trong nước, Nghị quyết yêu cầu xây dựng cơ chế khuyến khích, ưu đãi thỏa đáng để tăng liên kết giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, khuyến khích chuyển giao công nghệ và quản trị cho DN Việt Nam. Đồng thời hỗ trợ, khuyến khích DN trong nước để nâng tầm DN đáp ứng được các yêu cầu của chuỗi giá trị, từ đó tham gia hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu.

Tăng rà soát FDI trong lĩnh vực nhạy cảm

Một điểm nổi bật của Nghị quyết số 50 mà Bộ Chính trị ban hành là rà soát vấn đề an ninh quốc phòng đối với các dự án FDI, đặc biệt ở các khu vực, lĩnh vực nhạy cảm. Theo Thứ trưởng Thắng, hiện do pháp luật đầu tư ngày càng thông thoáng, nên có hiện tượng người nước ngoài núp bóng người Việt Nam để mua cổ phần, cổ phiếu của DN Việt; cũng có hiện tượng người nước ngoài đội lốt mua các dự án, mua đất đai ở những vùng nhạy cảm.

Bên cạnh đó, các hiện tượng chuyển giá, đầu tư “chui”, đầu tư “núp bóng” ngày càng tinh vi và có xu hướng gia tăng. Một số DN, dự án sử dụng lãng phí tài nguyên, đất đai, vi phạm chính sách, pháp luật về lao động, tiền lương, thuế, bảo hiểm xã hội, môi trường... Và cũng đã phát sinh nhiều vụ việc tranh chấp, khiếu kiện phức tạp cả trong nước và quốc tế.

Theo số liệu thống kê, trong tổng số 350 tỷ USD vốn FDI đăng ký đã có 180 tỷ USD bơm vào nền kinh tế. Dư địa còn đến 170 tỷ USD chưa được thực hiện. Lý do khách quan là bởi độ trễ của dự án đầu tư, song có một phần khác đến từ những dự án “ảo”, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản, nhiều dự án đăng ký vốn lớn song lại giải ngân rất thấp.

Bên cạnh đó, trong bối cảnh tình hình an ninh nhiều biến đổi, không chỉ là liên quan đến những vấn đề truyền thống mà cả những vấn đề phi truyền thống như công nghệ, môi trường, tôn giáo… đòi hỏi phải có cơ chế rà soát từ trước khi cấp giấy chứng nhận đầu tư.

Vì thế, Nghị quyết 50 yêu cầu nghiên cứu, xây dựng các quy định khắc phục tình trạng “vốn mỏng”, chuyển giá, đầu tư “chui”, đầu tư “núp bóng”, nghiên cứu bổ sung quy định “điều kiện về quốc phòng, an ninh” trong quá trình xem xét, cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và cả hoạt động đầu tư thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng lưu ý: “Việc vào cuộc của các cấp, các ngành sẽ hạn chế được các dự án ‘vốn ảo’ với mục tiêu tìm kiếm các dự án có hiệu quả. Tuy nhiên, trách nhiệm chính trong việc lựa chọn thuộc về các chính quyền địa phương vì việc cấp phép và giấy chứng nhận đầu tư là của chính quyền địa phương”.

Và một điểm nhấn quan trọng trong Nghị quyết 50, đó là phải hoàn thiện thể chế. Chỉ khi thể chế được hoàn thiện mới tính đến việc triển khai thu hút FDI hiệu quả. Nhiều vấn đề tồn tại với FDI thời gian qua sẽ được giải quyết khi thực hiện hoàn thiện thể chế theo định hướng Nghị quyết đề ra.

Sau hơn 30 năm thực hiện thu hút đầu tư nước ngoài, đến nay vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 350 tỷ USD, bình quân tăng trên 20%/năm trong 30 năm qua, đồng thời là khu vực tăng trưởng cao nhất trong nền kinh tế. Tuy nhiên, việc thu hút, quản lý và hoạt động đầu tư nước ngoài vẫn còn những tồn tại, hạn chế và phát sinh những vấn đề mới, mà đã đến lúc chúng ta cần điều chỉnh và rà soát lại cho phù hợp. Để có thêm những nhận định xung quanh vấn đề này, ngày 6/9, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức Tọa đàm “Nâng cao chất lượng dòng vốn FDI vào Việt Nam”.

“Chủ động thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan toả, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu,” Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 do Bộ Chính trị ban hành chỉ đạo mục tiêu trong hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.