Gia tăng tỷ trọng cho vay trung dài hạn
Đang có sự chuyển biến trong cơ cấu dư nợ của ngân hàng, theo đó nhiều nhà băng gia tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn.
Điều này phần nào lý giải cho hiện tượng hàng loạt nhà băng điều chỉnh lãi suất tiền gửi bằng tiền đồng nhanh và khá lớn ở một số kỳ hạn dài hoặc triển khai các sản phẩm huy động vốn, chương trình tiền gửi ưu đãi, tiết kiệm online, phát hành sản phẩm chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu với mức lãi suất cao.
Ngân hàng tư nhân dẫn đầu
Theo đánh giá của các chuyên gia, sự mất cân đối giữa kênh cung ứng vốn ngân hàng và thị trường vốn còn rất bất cập. Trong khi nhu cầu vốn trung, dài hạn của doanh nghiệp (DN) để mở rộng và phát triển sản xuất, kinh doanh rất lớn, thị trường vốn lại chưa phát triển đủ cả về quy mô và chất lượng để có thể đáp ứng được nhu cầu này. Do đó, vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu vẫn phải dựa vào hệ thống ngân hàng, tín dụng trung dài hạn chiếm tỷ trọng khá lớn, khoảng 50,6% tổng dư nợ.
Thực trạng này đã và đang tạo sức ép và rủi ro rất lớn cho hệ thống tổ chức tín dụng. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu vốn trung, dài hạn của các DN nói riêng và nền kinh tế nói chung thì phát triển thị trường chứng khoán là điều kiện tất yếu, giảm dần lệ thuộc vào tín dụng ngân hàng.
Khảo sát tại 22 ngân hàng thương mại tại thời điểm cuối tháng 9/2019 cho thấy có tới 13 thành viên (tương đương 59,1%) đang có tỷ trọng cho vay trung và dài hạn chiếm tới hơn 50% trong cơ cấu tổng dư nợ.
Đáng chú ý, tỷ lệ cho vay trung và dài hạn của nhóm ngân hàng thương mại tư nhân cao hơn rất nhiều so với nhóm ngân hàng có vốn nhà nước chi phối.
Theo đó, tính đến cuối tháng 9/2019, VIB đang có hơn 101 nghìn tỷ đồng cho vay trung và dài hạn, trong tổng số hơn 123 nghìn tỷ đồng dư nợ cho vay. Tính ra, ngân hàng này đang dành tới 82,32%/tổng dư nợ để cho vay trung và dài hạn.
Con số này tại OCB là 68,92%, VPBank: 64,91%, LienVietPostBank: 75%, TPBank: 68%; Techcombank và VietBank ghi nhận lần lượt ở mức 63% và 62%.
Cụ thể, LienVietPostBank ghi nhận 29.400 tỷ đồng cho vay dài hạn, chiếm 23%, trong khi cho vay trung hạn chiếm 45% với 58.714 tỷ đồng. Dư nợ cho vay trung hạn tại VPBank chiếm 44% và dài hạn là 21%, tương ứng ở mức 108.450 tỷ đồng và 52.292 tỷ đồng. Trong khi dư nợ dài hạn tại Techcombank chiếm 41%, ở mức 76.568 tỷ đồng; trung hạn là 22%, ở mức gần 76.600 tỷ đồng.
Khảo sát tại các ngân hàng có vốn nhà nước chi phối cho thấy tỷ lệ cho vay trung và dài hạn/ tổng dư nợ thấp hơn khá nhiều so với mức trung bình của nhóm tư nhân.
Cụ thể, tính đến cuối quý III/2019, tổng dư nợ cho vay của Vietcombank ở mức hơn 708 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng 12% so với đầu năm. Trong đó, cho vay trung và dài hạn của ngân hàng ở mức hơn 335 nghìn tỷ đồng, tăng 16% so với đầu năm và chỉ chiếm 47,38% tổng dư nợ. Tương tự, tỷ lệ này tại VietinBank đang là 43% và tại BIDV là 37%.
Rủi ro cao
Theo đánh giá của các chuyên gia, việc cho vay kỳ hạn dài rất hấp dẫn vì giúp nhà băng có được lãi biên cao hơn, từ đó củng cố lợi nhuận chung.
Tuy nhiên, điều này cũng đồng nghĩa với việc rủi ro tiềm ẩn cho hệ thống trong tương lai lớn hơn vì cho vay kỳ hạn càng dài thì rủi ro càng cao, nhất là trong điều kiện tỷ trọng vốn ngắn hạn vẫn chiếm chủ yếu trong cơ cấu nguồn vốn huy động nói chung.
Để giải quyết vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã sửa đổi Thông tư số 36, theo đó muộn nhất đến tháng 7/2022, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn của các nhà băng phải giảm về 30% từ mức 40% đang áp dụng từ 1/1 năm nay.
NHNN cho biết việc siết dòng vốn ngắn hạn cho vay, trung dài hạn sẽ từng bước kiểm soát được rủi ro thanh khoản, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trước những thay đổi từ trong và ngoài nước, giúp ổn định hoạt động, thúc đẩy phát triển kinh tế.
Đây cũng chính là lý do khiến từ đầu năm đến nay, các ngân hàng dùng nhiều biện pháp để tăng nguồn huy động trung và dài hạn nhằm đáp ứng quy định của NHNN như phát hành trái phiếu tăng vốn cấp 2, tăng lãi suất tiền gửi, thu hút người dân gửi tiền kỳ hạn trung và dài, phát hành chứng chỉ tiền gửi lãi suất cao…
Về diễn biến lãi suất này, NHNN từng đánh giá là làm tiềm ẩn nhiều rủi ro ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển lành mạnh của hệ thống ngân hàng, tạo ra diễn biến tâm lý tiêu cực trên thị trường, có nguy cơ dẫn đến cuộc đua về lãi suất huy động giữa các tổ chức tín dụng, gây bất ổn thị trường tiền tệ.
Cơ quan quản lý cảnh báo sẽ xử nghiêm các trường hợp vi phạm, trong đó gồm cả biện pháp thu hẹp chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của tổ chức ngân hàng vi phạm.