Góp bàn về các tiêu chí xác định nền kinh tế thị trường
Phát triển kinh tế thị trường ngày nay trở thành phổ biến trong các quốc gia trên thế giới, nó là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Kinh tế thị trường được khẳng định là phương tiện hiệu quả trong khai thác và phân bổ nguồn lực.
Tuy nhiên, các tiêu chí để xác định là nền kinh tế thị trường cũng còn có quan niệm chưa thống nhất. Hơn nữa, trong các mô hình kinh tế thị trường hiện nay trên thế giới, chẳng hạn kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng có những nét riêng, đặc thù.
Lịch sử và quan niệm
Quá trình phát triển của xã hội loài người từ nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc sang nền sản xuất hàng hóa, gắn liền với sự phát triển của phân công lao động xã hội. Sản xuất hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để bán trên thị trường.
Quá trình phát triển của xã hội loài người từ nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc sang nền sản xuất hàng hóa, gắn liền với sự phát triển của phân công lao động xã hội. Sản xuất hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để bán trên thị trường.
Sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử lâu dài. Đầu tiên là sản xuất hàng hóa giản đơn của nông dân, thợ thủ công dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sức lao động của bản thân họ.
Khi lực lượng sản xuất phát triển, quy mô và trình độ sản xuất hàng hóa tăng lên, sản xuất hàng hóa giản đơn chuyển thành sản xuất hàng hóa quy mô lớn.
Cơ sở kinh tế - xã hội của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa là phân công lao động xã hội và sự tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau trong đó có sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Cơ sở kinh tế - xã hội của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa là phân công lao động xã hội và sự tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau trong đó có sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Khi sản phẩm lao động trở thành hàng hóa thì người sản xuất trở thành người sản xuất hàng hóa, lao động của người sản xuất hàng hóa bao hàm sự thống nhất giữa hai mặt đối lập là tính chất xã hội và tính chất tư nhân của lao động sản xuất hàng hóa, và mâu thuẫn này được giải quyết trên thị trường, khi mà hàng hóa được trao đổi.
Trong một nền kinh tế khi sản xuất hàng hóa phát triển cao, vận động theo cơ chế thị trường thì nền kinh tế ấy là nền kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ, môi trường, động lực và quy luật chi phối sự vận động của thị trường.
Trong một nền kinh tế khi sản xuất hàng hóa phát triển cao, vận động theo cơ chế thị trường thì nền kinh tế ấy là nền kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ, môi trường, động lực và quy luật chi phối sự vận động của thị trường.
Trong kinh tế thị trường, hoạt động của các thành viên được thúc đẩy bởi động lực lợi nhuận, chính lợi nhuận thôi thúc các doanh nghiệp sản xuất các loại hàng hóa và dịch vụ mà xã hội cần.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường là sự vận động của quá trình sản xuất tuân theo những quy luật như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ…, các quy luật có vị trí, vai trò độc lập, song lại có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau và tạo ra những nguyên tắc vận động của thị trường. Các nguyên tắc này quy định các hoạt động về đầu tư, sản xuất và phân phối…
Ngày nay, nền kinh tế thị trường đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới, nó trở thành giá trị chung của nhân loại, là phương tiện hiệu quả trong khai thác và phân bổ nguồn lực. Giá trị mà nó mang lại cho đời sống vật chất cũng như tinh thần của con người được thực tiễn khẳng định.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường là sự vận động của quá trình sản xuất tuân theo những quy luật như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ…, các quy luật có vị trí, vai trò độc lập, song lại có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau và tạo ra những nguyên tắc vận động của thị trường. Các nguyên tắc này quy định các hoạt động về đầu tư, sản xuất và phân phối…
Ngày nay, nền kinh tế thị trường đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới, nó trở thành giá trị chung của nhân loại, là phương tiện hiệu quả trong khai thác và phân bổ nguồn lực. Giá trị mà nó mang lại cho đời sống vật chất cũng như tinh thần của con người được thực tiễn khẳng định.
Bên cạnh đó, thị trường có thể gây ra một số ngoại ứng tiêu cực đối với phúc lợi xã hội của một bộ phận dân cư hoặc một nhóm ngành nghề nào đó, mà ở đó vai trò của nhà nước và xã hội cần được phát huy.
Mặc dù đã được thừa nhận rộng rãi, nhưng mức độ phát triển cơ chế thị trường tại các nền kinh tế, bao gồm cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, là không tương đồng, thậm chí có sự khác biệt.
Mặc dù đã được thừa nhận rộng rãi, nhưng mức độ phát triển cơ chế thị trường tại các nền kinh tế, bao gồm cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, là không tương đồng, thậm chí có sự khác biệt.
Nếu như trước đây, sự phân biệt giữa nền kinh tế thị trường và nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung là khá rõ ràng, dựa chủ yếu vào chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất - một bên là tư hữu và bên kia là công hữu, thì ngày nay sự phân biệt ngoài sự phát triển của các thị trường, vai trò yếu tố xã hội, thì chủ yếu là ở mức độ nhà nước can thiệp vào các quá trình vận hành của thị trường.
Tùy thuộc vào vai trò, mức độ can thiệp của nhà nước mà người ta gọi mô hình này là nền kinh tế thị trường tự do hay mô hình kinh tế hỗn hợp.
Tùy thuộc vào vai trò, mức độ can thiệp của nhà nước mà người ta gọi mô hình này là nền kinh tế thị trường tự do hay mô hình kinh tế hỗn hợp.
Trong nền kinh tế thị trường tự do, các tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc sở hữu tư nhân (hoặc bởi các chủ thể được hình thành từ sở hữu tư nhân); tất cả các hoạt động kinh tế, bao gồm trao đổi, sản xuất, và tiêu dùng đều trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc; giá cả và lợi nhuận được hình thành từ các hoạt động kinh tế trở thành tín hiệu để các tác nhân trong nền kinh tế sáng tạo và phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả.
Nhà nước trong mô hình kinh tế này là một nhà nước tối thiểu, có quyền lực được giới hạn trong các hoạt động bảo vệ quyền sở hữu và duy trì công bằng cho mọi người.
Còn trong mô hình kinh tế hỗn hợp, mà ngày nay tồn tại phổ biến trong các nền kinh tế toàn cầu thì cả nhà nước và thị trường cùng phát huy vai trò và bổ trợ cho nhau. Nhà nước được chú ý hơn trong vai trò là người dẫn dắt, điều chỉnh.
Vai trò này đặc biệt được chú ý trong các thời kỳ khủng hoảng. Nhiều quốc gia đã đẩy mạnh quá trình tư nhân hóa, hoặc chuyển giao công - tư, nhà nước hầu như không triển khai đầu tư kinh doanh trực tiếp, bản thân các dịch vụ công cũng được chuyển cho tư nhân tham gia cung cấp.
Nhà nước sử dụng các công cụ điều tiết, nhất là các chính sách tài chính - tiền tệ, thuế, ngân sách, xây dựng các chiến lược, quy hoạch dài hạn... để điều chỉnh, định hướng nền kinh tế, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho các chủ thể trên thị trường hoạt động.
Tuy có các mô hình kinh tế thị trường khác nhau, song chúng có một số tiêu chí đặc trưng cần thiết để nền kinh tế được xem là nền kinh tế thị trường như sau:
Thứ nhất, về sở hữu. Đây là nền kinh tế đa sở hữu, trong đó phần lớn hàng hóa và dịch vụ là được sở hữu bởi tư nhân. Điều này tạo cho phần lớn người sở hữu quyền làm ra hợp đồng có tính ràng buộc pháp lý để mua, bán, cho thuê, cho mượn tài sản của họ.
Tuy có các mô hình kinh tế thị trường khác nhau, song chúng có một số tiêu chí đặc trưng cần thiết để nền kinh tế được xem là nền kinh tế thị trường như sau:
Thứ nhất, về sở hữu. Đây là nền kinh tế đa sở hữu, trong đó phần lớn hàng hóa và dịch vụ là được sở hữu bởi tư nhân. Điều này tạo cho phần lớn người sở hữu quyền làm ra hợp đồng có tính ràng buộc pháp lý để mua, bán, cho thuê, cho mượn tài sản của họ.
Nói cách khác, tài sản của họ cho phép họ được hưởng lợi từ việc sở hữu tài sản. Tuy nhiên, có trường hợp ngoại lệ cho những thứ được coi là tài sản tư nhân. Ví dụ, từ năm 1895, Mỹ không cho phép một cá nhân mua hay bán người, ngay cả bản thân.
Điều này bao gồm cả cơ thể hay bất kỳ bộ phận nào. Bên cạnh sở hữu tư nhân, trong nền kinh tế thị trường cũng tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau, và tồn tại sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng.
Thứ hai, về quyền tự do lựa chọn. Người sở hữu, doanh nhân, người tiêu dùng và người lao động có quyền tự do lựa chọn nên sản xuất, bán hay mua bất kỳ thứ gì ở thị trường khi luật pháp không cấm. Thứ duy nhất ràng buộc họ là giá cả mà họ quyết định bỏ ra để bán hay mua với số tiền họ có.
Thứ ba, về lợi ích bản thân các chủ thể. Thị trường bị kiểm soát bởi những người muốn bán hàng hóa và dịch vụ của họ cho người trả giá cao nhất, cùng khi đó lại là trả giá ít nhất cho hàng hóa và dịch vụ họ cần.
Thứ hai, về quyền tự do lựa chọn. Người sở hữu, doanh nhân, người tiêu dùng và người lao động có quyền tự do lựa chọn nên sản xuất, bán hay mua bất kỳ thứ gì ở thị trường khi luật pháp không cấm. Thứ duy nhất ràng buộc họ là giá cả mà họ quyết định bỏ ra để bán hay mua với số tiền họ có.
Thứ ba, về lợi ích bản thân các chủ thể. Thị trường bị kiểm soát bởi những người muốn bán hàng hóa và dịch vụ của họ cho người trả giá cao nhất, cùng khi đó lại là trả giá ít nhất cho hàng hóa và dịch vụ họ cần.
Mặc dù mục đích bắt nguồn từ lợi ích riêng của bản thân các chủ thể, nó lại có lợi ích cho nền kinh tế trong quãng đường dài. Bởi vì hệ thống hình thành giá này định giá đúng với các hàng hóa và dịch vụ, phản ánh chính xác cung và cầu ở bất kỳ thời điểm nào.
Thứ tư, về cạnh tranh. Áp lực cạnh tranh khiến giá cả ổn định tương đối và bảo đảm là hàng hóa và dịch vụ được cung cấp hiệu quả. Đó là bởi vì, mỗi khi cầu tăng cho một thứ hàng hóa nhất định nào đó, giá cả tăng theo sự chi phối của quy luật cung - cầu.
Thứ tư, về cạnh tranh. Áp lực cạnh tranh khiến giá cả ổn định tương đối và bảo đảm là hàng hóa và dịch vụ được cung cấp hiệu quả. Đó là bởi vì, mỗi khi cầu tăng cho một thứ hàng hóa nhất định nào đó, giá cả tăng theo sự chi phối của quy luật cung - cầu.
Khi các đối thủ nhìn thấy lợi nhuận bổ sung có thể đạt được, họ bắt đầu sản xuất để tăng cung. Điều này làm giảm giá cho đến khi chỉ còn lại đối thủ mạnh nhất. Áp lực cạnh tranh này cũng chi phối những người lao động, những người đang cạnh tranh cho công việc được trả lương cao nhất, và những người tiêu dùng, cạnh tranh cho sản phẩm tốt nhất với giá thấp nhất.
Nền kinh tế thị trường là một môi trường sản xuất, kinh doanh có sự cạnh tranh gay gắt của các chủ thể… Cạnh tranh và đào thải một cách có chọn lọc được điều tiết bởi bàn tay vô hình.
Thứ năm, về hệ thống thị trường và giá cả. Nền kinh tế thị trường hoàn toàn phụ thuộc vào một thị trường hiệu quả biết bán hàng hóa và dịch vụ nào.
Thứ năm, về hệ thống thị trường và giá cả. Nền kinh tế thị trường hoàn toàn phụ thuộc vào một thị trường hiệu quả biết bán hàng hóa và dịch vụ nào.
Trong một thị trường hiệu quả, tất cả người mua và người bán đều có quyền như nhau, thông tin như nhau dựa trên quyết định của họ. Giá tăng và giảm tự do dựa hoàn toàn vào quy luật cung - cầu.
Thứ sáu, về vai trò giới hạn của nhà nước. Vai trò của nhà nước chỉ đơn giản là bảo đảm thị trường đang mở rộng và hoạt động tốt. Nhà nước cũng cần phải bảo đảm rằng tất cả mọi người đều có quyền tiếp cận thị trường như nhau.
Thứ sáu, về vai trò giới hạn của nhà nước. Vai trò của nhà nước chỉ đơn giản là bảo đảm thị trường đang mở rộng và hoạt động tốt. Nhà nước cũng cần phải bảo đảm rằng tất cả mọi người đều có quyền tiếp cận thị trường như nhau.
Ví dụ, nhà nước áp dụng hình phạt cho các ngành độc quyền, khiến nó trở nên giới hạn cạnh tranh. Nhà nước phải quản lý để bảo đảm không ai đang kiểm soát thị trường theo cách không công bằng và bảo đảm rằng tất cả thông tin được phân phối đều.
Xác định nền kinh tế thị trường
Như vậy, thế giới đã từng tồn tại hai hệ thống kinh tế đối lập nhau, kinh tế kế hoạch và kinh tế thị trường. Khi hệ thống kinh tế kế hoạch thất bại, nhiều quốc gia chuyển đổi sang phát triển nền kinh tế thị trường, tham gia vào hệ thống thương mại toàn cầu.
Xác định nền kinh tế thị trường
Như vậy, thế giới đã từng tồn tại hai hệ thống kinh tế đối lập nhau, kinh tế kế hoạch và kinh tế thị trường. Khi hệ thống kinh tế kế hoạch thất bại, nhiều quốc gia chuyển đổi sang phát triển nền kinh tế thị trường, tham gia vào hệ thống thương mại toàn cầu.
Tuy nhiên, các nền kinh tế chuyển đổi để được hội nhập vào nền kinh tế thị trường toàn cầu mà các luật chơi vốn dĩ đã được hình thành với sự chi phối của hệ thống các nước tư bản phát triển phương Tây, phải được chấp thuận và công nhận là nền kinh tế thị trường.
Và một nền kinh tế thực sự được hội nhập vào hệ thống kinh tế thị trường chỉ khi được xem xét và công nhận là nền kinh tế thị trường. Điều này sẽ thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Và một nền kinh tế thực sự được hội nhập vào hệ thống kinh tế thị trường chỉ khi được xem xét và công nhận là nền kinh tế thị trường. Điều này sẽ thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Cụ thể, như nhiều nhà kinh tế đã chỉ ra như: về hạn mức tín dụng, được các tổ chức tài chính cho mức cao hơn, phí về rủi ro thấp hơn; việc vay mượn quốc tế của quốc gia và doanh nghiệp thuận lợi hơn; về chống bán phá giá của doanh nghiệp và hàng hóa, khi xem xét, họ dựa vào giá bán trong nước so với giá xuất khẩu - như vậy công bằng hơn và ít bị kết luận bán phá giá và áp thuế nhập khẩu cao.
Nếu không được công nhận là nền kinh tế thị trường thì họ lấy giá của nước thứ 3 so sánh, gây bất lợi cho xuất khẩu và không tránh khỏi bị kết luận bán phá giá, bị áp thuế nhập khẩu cao để hạn chế bán hàng vào thị trường của các nước trong hệ thống kinh tế thị trường.
Như vậy, được công nhận nền kinh tế thị trường sẽ tạo điều kiện cho hàng hóa xuất khẩu được đối xử công bằng hơn, có điều kiện thâm nhập và mở rộng thị trường tốt hơn, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp ổn định hơn. Môi trường ổn định và minh bạch sẽ thu hút được nguồn đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển nhanh.
Tuy nhiên, trên thực tế việc có được công nhận là nền kinh tế thị trường hay không phụ thuộc không chỉ vào các yếu tố kinh tế - kỹ thuật mà còn phụ thuộc cả vào các yếu tố chính trị. Cụ thể, Việt Nam đã được không ít nước công nhận là nền kinh tế thị trường, trong khi đó Mỹ và EU chưa công nhận. Điều này cho thấy tiêu chí để công nhận nền kinh tế là kinh tế thị trường cũng khác nhau.
Tuy nhiên, trên thực tế việc có được công nhận là nền kinh tế thị trường hay không phụ thuộc không chỉ vào các yếu tố kinh tế - kỹ thuật mà còn phụ thuộc cả vào các yếu tố chính trị. Cụ thể, Việt Nam đã được không ít nước công nhận là nền kinh tế thị trường, trong khi đó Mỹ và EU chưa công nhận. Điều này cho thấy tiêu chí để công nhận nền kinh tế là kinh tế thị trường cũng khác nhau.
Chẳng hạn, như chúng ta đã biết, EU nêu 5 điều kiện: 1-Mức độ ảnh hưởng của nhà nước đối với việc phân bổ các nguồn lực và các quyết định của doanh nghiệp, bất kể là trực tiếp hay gián tiếp, chẳng hạn thông qua việc áp dụng giá cả do nhà nước ấn định, hoặc phân biệt đối xử trong chế độ thuế, thương mại hoặc tiền tệ; 2- Không có hiện tượng nhà nước can thiệp bóp méo hoạt động của các doanh nghiệp liên quan đến khu vực tư nhân.
Không sử dụng cơ chế thương mại phi thị trường hoặc các hệ thống đền bù (ví dụ như thương mại hàng đổi hàng); 3- Ban hành và thực thi luật doanh nghiệp minh bạch và không phân biệt đối xử, bảo đảm quản lý doanh nghiệp một cách thích hợp (áp dụng các tiêu chuẩn kế toán quốc tế, bảo vệ cổ đông, đầy đủ thông tin chính xác về doanh nghiệp); 4- Ban hành và áp dụng một hệ thống luật thống nhất, hiệu quả và minh bạch bảo đảm tôn trọng quyền sở hữu tài sản và bảo đảm sự vận hành của quy chế phá sản doanh nghiệp; 5- Tồn tại một khu vực tài chính đích thực hoạt động độc lập với nhà nước, với đầy đủ các quy định về các biện pháp bảo đảm tín dụng và giám sát điều chỉnh về mặt pháp luật.
Và họ khẳng định Việt Nam mới chỉ đáp ứng được 1 trong 5 tiêu chí trên, đó là mức độ ảnh hưởng của nhà nước trong việc phân bổ các nguồn lực và các quyết định của doanh nghiệp.
Đối với Mỹ, theo luật pháp của Mỹ, một nước có nền kinh tế phi thị trường là ở đó hoạt động kinh tế không dựa trên các nguyên tắc thị trường về cơ chế tính giá hoặc chi phí, và do đó hàng hóa được bán tại nước này không phản ánh giá trị công bằng của hàng hóa.
Đối với Mỹ, theo luật pháp của Mỹ, một nước có nền kinh tế phi thị trường là ở đó hoạt động kinh tế không dựa trên các nguyên tắc thị trường về cơ chế tính giá hoặc chi phí, và do đó hàng hóa được bán tại nước này không phản ánh giá trị công bằng của hàng hóa.
Bộ Thương mại Mỹ khi xem xét công nhận hay không công nhận một nền kinh tế có là kinh tế thị trường được dựa trên 6 tiêu chí kỹ thuật: 1- Mức độ chuyển đổi của đồng tiền quốc gia ra ngoại tệ; 2- Mức độ lương bổng được quyết định trên cơ sở tự do thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động; 3- Mức độ cho phép thành lập các doanh nghiệp liên doanh hoặc những hình thức đầu tư khác của nhà đầu tư nước ngoài; 4- Mức độ sở hữu hoặc kiểm soát của nhà nước đối với phương tiện sản xuất; 5- Mức độ kiểm soát của nhà nước đối với việc phân bổ các nguồn lực và đối với quyết định của giới doanh nghiệp về sản lượng và giá cả; 6- Các yếu tố khác mà Bộ Thương mại Mỹ cho là phù hợp.
Rõ ràng tiêu chí để được công nhận là nền kinh tế thị trường là khác nhau. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, được hưởng cái gọi là công bằng trong hoạt động kinh tế đương nhiên phải đàm phán để các quốc gia công nhận là có nền kinh tế thị trường.
Rõ ràng tiêu chí để được công nhận là nền kinh tế thị trường là khác nhau. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, được hưởng cái gọi là công bằng trong hoạt động kinh tế đương nhiên phải đàm phán để các quốc gia công nhận là có nền kinh tế thị trường.
Song có lẽ cái quan trọng hơn là xây dựng nền kinh tế thực sự phát triển theo cơ chế thị trường mà ở đó các quy luật kinh tế thị trường được vận hành đầy đủ và đồng bộ.
Về tiêu chí nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Với đường lối đổi mới chúng ta chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Quan niệm về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng rõ được khẳng định trong Văn kiện Đại hội lần tứ XII của Đảng với các nội dung chính như:
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà nước ta xây dựng là: “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Về tiêu chí nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Với đường lối đổi mới chúng ta chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Quan niệm về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng rõ được khẳng định trong Văn kiện Đại hội lần tứ XII của Đảng với các nội dung chính như:
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà nước ta xây dựng là: “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Có hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế giới; vai trò, chức năng của Nhà nước và thị trường được xác định và thực hiện phù hợp với thông lệ, nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế phổ biến.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN “các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”. Khuyến khích làm giàu hợp pháp. Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, “Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường”; phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội.
Có hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế giới; vai trò, chức năng của Nhà nước và thị trường được xác định và thực hiện phù hợp với thông lệ, nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế phổ biến.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN “các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”. Khuyến khích làm giàu hợp pháp. Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, “Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường”; phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội.
“Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường”.
Với bản chất được xác định như trên, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là kiểu tổ chức kinh tế phản ánh sự kết hợp giữa cái chung là kinh tế thị trường với cái riêng, đặc thù là định hướng XHCN. Với định nghĩa nói trên cho thấy:
Thứ nhất, các đặc trưng nêu trên của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là những đặc trưng đã có và đang hướng tới xây dựng hoàn thiện. Về cơ bản các đặc trưng của nền kinh tế thị trường đều phải được bao chứa trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà ta đang xây dựng.
Với bản chất được xác định như trên, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là kiểu tổ chức kinh tế phản ánh sự kết hợp giữa cái chung là kinh tế thị trường với cái riêng, đặc thù là định hướng XHCN. Với định nghĩa nói trên cho thấy:
Thứ nhất, các đặc trưng nêu trên của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là những đặc trưng đã có và đang hướng tới xây dựng hoàn thiện. Về cơ bản các đặc trưng của nền kinh tế thị trường đều phải được bao chứa trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà ta đang xây dựng.
Chẳng hạn về tính đa sở hữu, về tự do cạnh tranh, về hoạt động của các quy luật của kinh tế thị trường (quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cạnh tranh và quy luật cung cầu…), về sự vận hành các thị trường và cơ chế thị trường, về vai trò nhà nước…
Thứ hai, tất cả các đặc trưng của kinh tế thị trường thể hiện ra ở các tiêu chí chung (EU- 5 tiêu chí, Mỹ - 6 tiêu chí) lại được triển khai trong môi trường có nét đặc thù, sự phát triển của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa rằng kinh tế thị trường với các đặc trưng vốn có của nó được vận dụng như là phương tiện để hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ ba, trong quan hệ giữa kinh tế thị trường với định hướng XHCN, không chỉ là quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện, mà còn là quan hệ giữa cái chung với cái riêng.
Thứ hai, tất cả các đặc trưng của kinh tế thị trường thể hiện ra ở các tiêu chí chung (EU- 5 tiêu chí, Mỹ - 6 tiêu chí) lại được triển khai trong môi trường có nét đặc thù, sự phát triển của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa rằng kinh tế thị trường với các đặc trưng vốn có của nó được vận dụng như là phương tiện để hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ ba, trong quan hệ giữa kinh tế thị trường với định hướng XHCN, không chỉ là quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện, mà còn là quan hệ giữa cái chung với cái riêng.
Nếu xét trong quan hệ giữa cái chung và cái riêng thì về nguyên tắc cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của chính mình. Cái riêng, cái đặc thù ở đây là hướng tới xây dựng thành công kinh tế thị trường định hướng XHCN, chứ không phải nền kinh tế thị trườngtư bản chủ nghĩa, hay một nền kinh tế thị trường bất kỳ nào khác.
Vậy, cái chung là những đặc trưng của kinh tế thị trường như đề cập ở trên sẽ được biểu hiện thông qua môi trường nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Trong điều kiện này thì các tiêu chí chung có gì mới và cũng như có những tiêu chí gì bổ sung, nói lên đặc tính của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN?
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các chủ thể phải tuân thủ các quy luật cơ bản nền kinh tế thị trường, đương nhiên phải thực hiện cạnh tranh, qua đó nâng cao chất lượng hàng hóa và dịch vụ.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các chủ thể phải tuân thủ các quy luật cơ bản nền kinh tế thị trường, đương nhiên phải thực hiện cạnh tranh, qua đó nâng cao chất lượng hàng hóa và dịch vụ.
Các chủ thể của mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng, tuy nhiên xét về chiều hướng vận động thì công hữu ngày càng trở thành nền tảng vững chắc, các hình thức sở hữu khác cùng phát triển mạnh mẽ không hạn chế và đan xen, hỗn hợp với nhau theo luật định. Đặc biệt đất đai thuộc sở hữu toàn dân, các chủ thể trên thị trường không có quyền chiếm hữu, nhưng có quyền sử dụng.
Vấn đề khác biệt nữa đáng chú ý là ở tiêu chí vai trò nhà nước. Nhà nước với tính cách là chủ thể quản lý và với tính cách là một chủ thể trên thị trường. Với tính cách là chủ thể quản lý, nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện cho thị trường vận hành, thậm chí hỗ trợ tạo lập các thị trường mới, bảo đảm các điều kiện bình đẳng cho các chủ thể trên thị trường.
Vấn đề khác biệt nữa đáng chú ý là ở tiêu chí vai trò nhà nước. Nhà nước với tính cách là chủ thể quản lý và với tính cách là một chủ thể trên thị trường. Với tính cách là chủ thể quản lý, nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện cho thị trường vận hành, thậm chí hỗ trợ tạo lập các thị trường mới, bảo đảm các điều kiện bình đẳng cho các chủ thể trên thị trường.
Hơn nữa nhà nước với bản chất của dân, do dân, vì dân, thực hiện chính sách tái phân phối hiệu quả, giảm thiểu mạnh chênh lệch giàu nghèo, mở ra cơ hội vươn lên của tầng lớp yếu thế trong xã hội.
Với tính cách là chủ thể trong thị trường, kinh tế nhà nước cần được đầu tư, phát triển hiệu quả theo cơ chế thị trường để đóng vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo là tiêu chí đặc thù của kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Với tính cách là chủ thể trong thị trường, kinh tế nhà nước cần được đầu tư, phát triển hiệu quả theo cơ chế thị trường để đóng vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo là tiêu chí đặc thù của kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trong kinh tế thị trường tự do, bàn tay nhà nước không được cổ vũ. Trong kinh tế thị trường xã hội nhà nước được chú ý với vai trò dẫn dắt, quản lý thông qua hệ thống luật pháp và thuế, thị trường và nhà nước cũng phối hợp thúc đẩy phát triển kinh tế.
Trong kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhà nước và thị trường đều được chú trọng, trong đó nhà nước vừa dẫn dắt, tạo lập thị trường, vừa là một chủ thể kinh tế đóng vai trò chủ đạo, trong đó các doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt.
Trong phân phối phải kết hợp hài hòa lợi ích của xã hội, mà đại biểu là Nhà nước với lợi ích của các chủ thể khác. Bên cạnh nguyên tắc phân phối của kinh tế thị trường cần kết hợp chặt chẽ nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội: Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh, phúc lợi xã hội.
Trong phân phối phải kết hợp hài hòa lợi ích của xã hội, mà đại biểu là Nhà nước với lợi ích của các chủ thể khác. Bên cạnh nguyên tắc phân phối của kinh tế thị trường cần kết hợp chặt chẽ nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội: Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh, phúc lợi xã hội.
Nhà nước thực hiện điều tiết phân phối thu nhập, từng bước thực hiện công bằng xã hội, tạo động lực phát triển sản xuất, khuyến khích người dân làm giàu hợp pháp.
Một tiêu chí đặc trưng đáng chú ý thể hiện bản chất kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp dân cư vào quá trình hình thành, thực hiện chính sách nhà nước cũng như tham gia giám sát, bổ sung, khắc phục sự lệch lạc của thị trường.
Một tiêu chí đặc trưng đáng chú ý thể hiện bản chất kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp dân cư vào quá trình hình thành, thực hiện chính sách nhà nước cũng như tham gia giám sát, bổ sung, khắc phục sự lệch lạc của thị trường.
Người dân ngoài việc thông qua cơ chế dân chủ đại diện, còn trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình thông qua các đoàn thể và các tổ chức xã hội.
Một xã hội dân chủ, mà qua đó người dân thuộc các tầng lớp xã hội đều bình đẳng, cùng tham gia làm chủ xã hội, giám sát nhà nước và thị trường, là một tiêu chí của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây là tiêu chí góp phần khẳng định tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Hiện nay nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và phát triển, không ít tiêu chí đang xây dựng và hoàn thiện, đang dần tiệm cận với chuẩn mực quốc tế.
Do vậy, cần đẩy mạnh quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cụ thể, cần tập trung, tiếp tục hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; Thể chế cho cải thiện môi trường đầu tư; thể chế cho phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất, phát triển và đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đồng thời, cần hoàn thiện thể chế trong quá trình trao đổi, phân phối vừa bảo đảm tính ngang giá, vừa tạo động lực và nguồn lực cho tăng trưởng, phát triển, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh.