Hành vi nào bị nghiêm cấm trên không gian mạng?

PV. (Tổng hợp)

Quốc hội vừa biểu quyết thông qua luật An ninh mạng với hơn 86% đại biểu đồng ý tán thành. Theo Luật An ninh mạng, bắt đầu từ ngày 1/1/2019, sẽ có một số hành vi bị pháp luật cấm trên không gian mạng.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Theo Luật An ninh mạng vừa được Quốc hội biểu quyết thông qua, an ninh mạng là sự bảo đảm hoạt động trên không gian mạng không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Điều 8, Luật An ninh mạng quy định rõ hành vi bị cấm gồm việc sử dụng không gian mạng để thực hiện hành vi sau đây:

Thứ nhất, hành vi quy định tại khoản 1 Điều 18 của Luật An ninh mạng. Cụ thể, hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội bao gồm: Đăng tải, phát tán thông tin trên không gian mạng có nội dung quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 16 và hành vi quy định tại khoản 1 Điều 17 của Luật này; Chiếm đoạt tài sản; Tổ chức đánh bạc, đánh bạc qua mạng internet; Trộm cắp cước viễn thông quốc tế trên nền internet; vi phạm bản quyền và sở hữu trí tuệ trên không gian mạng; Giả mạo trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Làm giả, lưu hành, trộm cắp, mua bán, thu thập, trao đổi trái phép thông tin thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng của người khác; phát hành, cung cấp, sử dụng các phương tiện thanh toán trái phép; Tuyên truyền, quảng cáo, mua bán hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục cấm theo quy định của pháp luật...

Thứ hai, tổ chức, hoạt động, cấu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thứ ba, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc.

Thứ tư, thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho các hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.

Thứ năm, hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng.

Thứ sáu, xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội.

Bên cạnh đó, Điều 8, Luật An ninh mạng cũng cấm việc thực hiện tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; Gây sự cố, tấn công, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn, ngưng trệ, tê liệt hoặc phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.

Cấm việc sản xuất, đưa vào sử dụng công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc có hành vi cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông; Phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử; Xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác.

Ngoài ra, các hành vi như: Chống lại hoặc cản trở hoạt động của lực lượng bảo vệ an ninh mạng; Tấn công, vô hiệu hóa trái pháp luật làm mất tác dụng biện pháp bảo vệ an ninh mạng. Lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi... cũng đều là các hành vi bị cấm theo quy định mới.

Về xử lý vi phạm pháp luật về an ninh mạng, Luật An ninh mạng nêu rõ người nào có hành vi vi phạm quy định của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.