Hoàn thiện khung khổ pháp lý về chuyển đổi loại hình doanh nghiệp
Chuyển đổi loại hình doanh nghiệp (DN) là việc DN thực hiện thay đổi từ hình thức pháp lý này sang hình thức pháp lý khác theo yêu cầu của pháp luật hoặc theo quyết định của DN. Hiện nay, Luật DN đã tạo điều kiện mở rộng khả năng chuyển đổi giữa các loại hình DN với nhau và đơn giản hóa thủ tục chuyển đổi. Tuy vậy, vẫn còn tồn tại những bất cập, hạn chế của các quy định pháp luật làm cho quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Bài viết này phân tích một số khía cạnh pháp lý về chuyển đổi loại hình DN, từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện chế định này trong Luật DN hiện hành.
Tổng quan về chuyển đổi loại hình DN
Khái niệm
Chế định pháp luật về các loại hình DN luôn là trung tâm trong hệ thống pháp luật kinh doanh của mỗi quốc gia. Về lý luận và thực tiễn kinh doanh cho thấy, “mỗi loại hình DN đều có những đặc điểm kinh tế, pháp lý và rủi ro kinh doanh không giống nhau, có khi đối lập nhau”. Khi các nhà kinh doanh lựa chọn loại hình DN nào đều xem xét, đánh giá để lựa chọn phù hợp với sở thích, hoàn cảnh và mục tiêu, hướng phát triển trong tương lai.
Trong quá trình hoạt động, DN nhận thấy sự cần thiết phải thay đổi loại hình pháp định đã lựa chọn ban đầu để có thể tiếp tục thích ứng tốt hơn với mục đích của mình hoặc tốt hơn nữa. Có thể đưa ra khái niệm: Chuyển đổi DN là tổ chức lại DN, theo đó DN sẽ thay đổi từ hình thức pháp lý này sang hình thức pháp lý khác, thay đổi các yếu tố tạo nên loại hình DN như quan hệ giữa các thành viên/cổ đông, và với DN, chế độ trách nhiệm của thành viên/cổ đông, tổ chức quản lý nội bộ, quan hệ sở hữu…
Bản chấp pháp lý của việc chuyển đổi loại hình DN là chuyển đổi hình thức kết cấu của thương nhân là các DN và không làm thay đổi nghĩa vụ trả nợ của thương nhân đó. Hay nói cách khác, việc chuyển đổi không làm chấm dứt hay thay đổi nghĩa vụ trả nợ của DN thực hiện chuyển đổi. Về nguyên tắc DN là chủ thể trong các quan hệ kinh doanh, bản thân DN phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ, nghĩa vụ tài chính khác của DN. Do đó, pháp luật đưa ra các quy định điều chỉnh hoạt động chuyển đổi DN về thủ tục chuyển đổi, các trường hợp chuyển đổi, bảo vệ bên thứ ba, các khoản nợ... Khi chuyển đổi DN mà tài sản của DN tăng lên, thì khả năng trả nợ sẽ tăng lên theo. Nhưng việc chuyển đổi có thể làm thay đổi chế độ trách nhiệm của chủ sở hữu của DN.
Các đặc điểm pháp lý cơ bản
Một là, chuyển đổi là một hình thức tổ chức lại DN.
Theo quy định Luật DN hiện hành thì “tổ chức lại DN là việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập hoặc chuyển đổi loại hình DN”. Chuyển đổi loại hình DN là hình thức tổ chức lại, cơ cấu lại DN cho phù hợp với số lượng thành viên và chiến lược phát triển của công ty hoặc theo yêu cầu bắt buộc của pháp luật. Vì vậy, khi quyết định chuyển đổi loại hình DN phải nắm rõ được về quy trình hoạt động, cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của loại hình muốn chuyển đổi để xác định rõ về tương lai của DN.
Sau khi chuyển đổi, DN đó sẽ hoạt động dưới dạng một loại hình khác. DN sau khi chuyển đổi kế thừa toàn bộ các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ khác của công ty được chuyển đổi.
Hai là, về chủ thể quyết định việc chuyển đổi.
Chủ sở hữu của DN hoặc cơ quan có quyền quyết định cao nhất trong DN quyết định.
Trường hợp DN chuyển đổi tự nguyện: Việc chuyển đổi hoàn toàn do chủ sở hữu DN quyết định. Căn cứ chuyển đổi chính là quyết định của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng thành viên… tùy thuộc vào loại hình DN thực hiện chuyển đổi.
Trường hợp DN bắt buộc chuyển đổi: Dựa trên quy định của pháp luật, căn cứ chuyển đổi chính là sự kiện làm thay đổi tình trạng pháp lý DN dẫn đến DN không đáp ứng được các điều kiện bắt buộc của pháp luật.
Ba là, DN phải thực hiện trình tự, thủ tục chuyển đổi theo quy định pháp luật.
DN không được tự ý chuyển đổi mà phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định pháp luật mới có quyền được chuyển đổi loại hình DN. DN thực hiện các thủ tục pháp lý để cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền sẽ cấp lại giấy chứng nhận đăng ký DN cho DN sau chuyển đổi. DN thực hiện chuyển đổi bắt buộc phải sửa đổi điều lệ cho phù hợp với loại hình DN sau khi chuyển đổi.
Sau khi chuyển đổi loại hình thành công, DN cần phải tiến hành thực hiện các thủ tục cấp đổi con dấu, thay đổi hóa đơn, thông báo đến cơ quan thuế theo quy định của pháp luật. DN phải quyết toán thuế thu nhập DN, trừ trường hợp chuyển từ công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) sang công ty cổ phần (CTCP) hoặc ngược lại mà công ty sau chuyển đổi kế thừa toàn bộ nghĩa vụ.
Bốn là, chuyển đổi loại hình có thể dẫn đến sự thay đổi thành viên, cổ đông.
DN sau khi chuyển đổi có thể thay đổi chủ sở hữu DN khi thêm thành viên/cổ đông mới nhằm đáp ứng số lượng thành viên/cổ đông tối thiểu của loại hình DN mới. Tuy vậy, cũng có trường hợp chuyển đổi DN không có sự thay đổi về chủ sở hữu mà chỉ thay đổi về loại hình, như chuyển đổi từ DNTN thành công ty TNHH một thành viên do một cá nhân làm chủ hoặc thay đổi từ công ty TNHH hai thành viên trở lên thành CTCP hoặc ngược lại.
Một số khía cạnh pháp lý về chuyển đổi loại hình DN
Về tư cách pháp nhân
Đối với các loại hình công ty, việc chuyển loại hình chỉ là sự thay đổi về hình thức pháp lý kinh doanh, còn pháp nhân công ty vẫn tồn tại, các quyền lợi và nghĩa vụ mà công ty đã cam kết dưới hình thức cũ vẫn tồn tại. Pháp nhân là một khái niệm để chỉ một loại chủ thể quan hệ pháp luật độc lập với các chủ thể khác và chủ sở hữu của pháp nhân. Pháp nhân ra đời đáp ứng điều kiện của đời sống xã hội và hoạt động lập pháp. Các loại hình công ty có tư cách pháp nhân là chủ thể độc lập trong quan hệ pháp luật. Nếu loại hình DN không có tư cách pháp nhân thì tham gia quan hệ pháp luật với tư cách thể nhân của chủ sở hữu DN.
Đối với việc chuyển đổi từ DN tư nhân (DNTN) - loại hình không có tư cách pháp nhân thành loại hình công ty có tư cách pháp nhân - như: công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), CTCP, Công ty hợp danh (CTHD) thì tư cách pháp nhân của công ty chuyển đổi được hình thành và đáp ứng các điều kiện của pháp nhân được quy định trong Bộ Luật dân sự. Pháp nhân công ty là chủ thể độc lập trong các quan hệ pháp luật.
Về số lượng thành viên, cổ đông tối thiểu
DN muốn thực hiện chuyển đổi loại hình phải đảm bảo số lượng thành viên/cổ đông tối thiểu của DN sau khi chuyển đổi phù hợp với quy định của pháp luật. Đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên phải đảm bảo số lượng từ 02 đến 50 thành viên. Đối với CTCP phải đảm bảo số lượng tối thiểu là 03 cổ đông. Đối với CTHD phải đảm bảo tối thiểu từ 02 thành viên hợp danh. Như vậy, DN muốn chuyển sang loại hình khác phải chứng minh đáp ứng đủ điều kiện mà loại hình DN mới đòi hỏi như về số lượng thành viên, cơ cấu tổ chức quản lý nội bộ… Điều lệ phải được sửa đổi cho phù hợp với hình thức mới.
Về quyền lợi của các thành viên/cổ đông
Việc chuyển đổi hình thức DN có thể tác động trực tiếp đến quyền lợi của thành viên/cổ đông là các chủ sở hữu phần vốn góp hoặc cổ phần của DN. Trước khi chuyển đổi hình thức, thành viên/cổ đông, tùy thuộc vào loại hình mà họ có thể có tên gọi khác nhau và/hoặc có quyền và nghĩa vụ khác nhau.
Đối với trường hợp chuyển đổi hình thức DN tự nguyện mà việc quyết định không theo nguyên tắc nhất trí mà theo một tỷ lệ nhất định thì thành viên/cổ đông có thể buộc phải chấp nhận việc chuyển đổi mặc dù không biểu quyết thông qua. Bên cạnh đó, việc xác định giá trị DN được chuyển đổi cũng hết sức quan trọng, đặc biệt trong việc quy đổi giữa phần vốn góp thành cổ phần và ngược lại.
Về trách nhiệm của các thành viên/cổ đông
Trách nhiệm của thành viên/cổ đông trong việc góp vốn/mua cổ phần: Các thành viên phải góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết hoặc cổ đông phải thanh toán cổ phần đã đăng ký mua. Nghĩa vụ góp vốn của các thành viên/thanh toán cổ phần là bắt buộc và phải thực hiện trong thời gian “90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký DN”.
Trong trường hợp công ty không góp đủ vốn điều lệ, phải đăng ký thay đổi vốn điều lệ bằng giá trị số vốn đã góp thực tế/bằng mệnh giá số cổ phần đã được thanh toán đủ trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày cuối cùng phải góp đủ vốn điều lệ. Trường hợp CTHD, nếu có thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó đối với công ty. Trong trường hợp này, thành viên góp vốn có liên quan có thể bị khai trừ khỏi công ty theo quyết định của Hội đồng thành viên.
Riêng trường hợp chuyển đổi DNTN thành công ty TNHH, CTCP, CTHD, trước khi chuyển đổi chủ sở hữu DNTN phải “i) cam kết bằng văn bản chịu trách nhiệm cá nhân bằng toàn bộ tài sản của mình đối với tất cả khoản nợ chưa thanh toán và cam kết thanh toán đủ số nợ khi đến hạn; ii). Có thỏa thuận bằng văn bản với các bên của hợp đồng chưa thanh lý về việc công ty được chuyển đổi tiếp nhận và tiếp tục thực hiện các hợp đồng đó; iii). Cam kết bằng văn bản hoặc có thỏa thuận bằng văn bản với các thành viên góp vốn khác về việc tiếp nhận và sử dụng lao động hiện có của DNTN”.
Trách nhiệm của thành viên/cổ đông trước và sau khi chuyển đổi:
Trách nhiệm của thành viên/cổ đông trước khi chuyển đổi được xác định cụ thể phụ thuộc vào loại hình DN . Đối với thành viên của công ty TNHH, cổ đông của CTCP và thành viên góp vốn trong CTHD chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn góp/số cổ phần đối với các khoản nợ của công ty. Đối với thành viên hợp danh trong CTHD chịu trách nhiệm vô hạn, liên đới đối với các khoản nợ của công ty và chủ sở hữu của DNTN chịu trách nhiệm vô hạn đối với khoản nợ của DNTN.
Kể từ ngày chuyển đổi, quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên/cổ đông bị chi phối bởi các quy tắc của công ty theo hình thức mới. Tùy theo hình thức DN chuyển đổi mà trách nhiệm của thành viên/cổ đông sẽ được xác định cụ thể. Ví như: “Nếu CTHD được chuyển thành CTCP thì từ nay họ sẽ được hưởng quy chế trách nhiệm có giới hạn. Trái lại, nếu CTCP được đổi thành CTHD thì trách nhiệm của họ sẽ là liên đới và không giới hạn đối với các món nợ của công ty trong tương lai” .
Về bảo đảm quyền lợi hợp pháp của bên thứ ba
Đối với các chủ nợ, đối tác có các quyền lợi liên quan đến DN trước khi chuyển đổi, quyền lợi của họ không ảnh hưởng của sự chuyển đổi. DN chuyển đổi đương nhiên kế thừa toàn bộ quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, hợp đồng lao động và nghĩa vụ khác của DN được chuyển đổi. Quy định trên nhằm để tránh việc lợi dụng chuyển đổi hình thức, DN thực hiện trốn tránh hoặc giảm trách nhiệm của các thành viên/cổ đông.
Quyền lợi của chủ nợ có thể bị ảnh hưởng hoặc nguy cơ bị ảnh hưởng khi DN thay đổi hình thức, nhất là việc thay đổi hình thức từ DN có chế độ trách nhiệm vô hạn sang DN có chế độ trách nhiệm hữu hạn, chưa kể đến trường hợp thành viên hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn nhưng bị phá hạn do hành vi không đúng đắn của mình.
Đối với người lao động, việc chuyển đổi hình thức DN thường gắn liền với việc thay đổi quy mô sản suất, ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh… những thay đổi này luôn ảnh hưởng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người lao động dựa trên cơ sở hợp đồng lao động đã ký kết và lớn hơn là vấn đề anh sinh xã hội. Vì vậy, pháp luật quy định “công ty chuyển đổi đương nhiên kế thừa toàn bộ quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về… hợp đồng lao động và nghĩa vụ khác của công ty được chuyển đổi”.
Giải pháp hoàn thiện khung khổ pháp lý về chuyển đổi loại hình DN
Thời gian tới, nhằm hoàn thiện khung khổ pháp lý về chuyển đổi loại hình DN, cần chú trọng các nội dung sau:
Một là, sử dụng đúng thuật ngữ trong chuyển đổi loại hình DN.
Theo quy định của Luật DN hiện hành, công ty thực hiện việc chuyển đổi được gọi là “công ty được chuyển đổi”, còn công ty mới hình thành sau khi chuyển đổi là “công ty chuyển đổi”. Cụ thể quy định “công ty chuyển đổi đương nhiên kế thừa toàn bộ quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, hợp đồng lao động và nghĩa vụ khác của công ty được chuyển đổi” . Bộ luật Dân sự 2015 cũng dùng thuật ngữ “pháp nhân được chuyển đổi” và “pháp nhân chuyển đổi” khi quy định “sau khi chuyển đổi hình thức, pháp nhân được chuyển đổi chấm dứt tồn tại kể từ thời điểm pháp nhân chuyển đổi được thành lập; pháp nhân chuyển đổi kế thừa quyền, nghĩa vụ dân sự của pháp nhân được chuyển đổi”.
Tuy vậy, tại khoản 3 Điều 205 Luật DN 2020 khi quy định chuyển đổi DNTN thành công ty TNHH, CTCP, CTHD: “Công ty được chuyển đổi đương nhiên kế thừa quyền, nghĩa vụ của DNTN kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký DN. Chủ DNTN chịu trách nhiệm cá nhân bằng toàn bộ tài sản của mình đối với tất cả khoản nợ phát sinh trước ngày công ty được chuyển đổi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký DN”. Tương tự, Nghị định số 01/2021/NĐ-CP về đăng ký DN quy định “thỏa thuận bằng văn bản của chủ DNTN với các bên của hợp đồng chưa thanh lý về việc công ty được chuyển đổi tiếp nhận và tiếp tục thực hiện các hợp đồng đó”.
Theo tác giả, Luật DN đã có nhầm lẫn đáng tiếc trong sử dụng các thuật ngữ “công ty chuyển đổi” thành “công ty được chuyển đổi” trong quy định tại khoản 2, điều 205 trên đây. Nếu như các nhà làm luật đưa các thuật ngữ này vào phần giải thích từ ngữ của Luật DN thì chắc chắn không có sự nhầm lẫn như vậy. Cần thiết xem xét, chỉnh sửa cho phù hợp, thống nhất trong các quy định của Luật DN hiện hành.
Hai là, Luật DN cần xuất phát từ bản chất của phần vốn góp/cổ phần. Xuất phát từ bản chất sở hữu phần vốn góp/cổ phần chỉ phát sinh khi các thành viên hoặc cổ đông thực hiện góp vốn/mua cổ phần đúng theo quy định của pháp luật. Vì vây, cần thiết phải quy định rõ ràng hơn, cụ thể các điều kiện trong trường hợp nếu thành viên/cổ đông chưa góp đủ số vốn/mua cổ phần cam kết mà công ty quyết định thực hiện chuyển đổi sang các loại hình DN khác.
Vốn điều lệ của công ty khi thực hiện thay đổi phải thể hiện đúng giá trị góp vốn/giá trị cổ phần đã mua của thành viên/cổ đông, bởi việc chuyển đổi hình thức công ty có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba, do vậy, việc quy định bắt buộc trước khi công ty thực hiện việc chuyển đổi thì thành viên/cổ đông phải hoàn thành nghĩa vụ là điều rất quan trọng. Qua đó, sẽ làm rõ được trách nhiệm của thành viên/cổ đông trong việc góp vốn/mua cổ phần khi DN thực hiện việc chuyển đổi nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người thứ ba và đảm bảo hoạt động kinh doanh.
Ba là, các quy định của Luật DN hiện chưa dự liệu hết được các yếu tố tác động của chuyển đổi hình thức DN. Vấn đề này có thể xâm phạm đến quyền lợi ích của người thứ ba, nên chưa đặt ra các điều kiện cụ thể chuyển đổi nhằm ngăn ngừa sự gây ảnh hưởng của việc chuyển đổi đến các chủ thể, giá trị cần bảo vệ. Vì vậy, ngoài việc đưa ra các điều kiện cụ thể khi chuyển đổi thì cần thiết phải đưa ra các quy định nhằm yêu cầu DN phải có phương án xử lý được đối tác chấp thuận cho chuyển đổi hình thức DN.
Bốn là, cần mở rộng hơn nữa các trường hợp chuyển đổi loại hình DN. Theo quy định của Luật DN hiện hành, có các trường hợp chuyển đổi như: Chuyển đổi công ty TNHH thành CTCP, Chuyển đổi CTCP thành công ty TNHH một thành viên, Chuyển đổi DNTN thành công ty TNHH, CTCP, CTHD. Theo quy định này, thì các loại hình công ty không thể chuyển đổi thành DNTN. CTHD không thể chuyển đổi thành các loại hình công ty khác hay DNTN. Các nhà làm luật cần đưa ra được những nguyên nhân hoặc lý do thích đáng cho sự hạn chế chuyển đổi những loại hình DN này.
Chuyển đổi hình thức DN không những có vai trò và ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn bảo đảm an toàn pháp lý cho chủ đầu tư, do vậy pháp luật cần có quy định cụ thể để tạo điều kiện thuận lợi cho DN cũng như cơ quan quản lý trong quá trình thực hiện, giám sát hoạt động này.
Tài liệu tham khảo:
- Nguyễn Mạnh Bách (2006), Các công ty thương mại, Nhà xuất bản tổng hợp Đồng Nai, tr. 55;
- Chính phủ (2021), Nghị định số 122/2021/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư;
- Chính phủ (2021), Nghị định 01/2021/NĐ-CP về Hồ sơ đăng ký DN đối với các trường hợp chuyển đổi loại hình DN;
- Ngô Huy Cương (2003), “Công ty: Từ bản chất pháp lý tới các loại hình”, Tạp chí Khoa học Kinh tế- Luật, Tập XIX, (1), tr.1 – 8;
- Quốc hội (2020), Luật DN 2020;
- Francis Lemeunier, Nguyên lý và thực hành Luật Thương mại, Luật Kinh doanh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia( dịch) 1993, tr. 180;
- Nguyễn Như Phát (2016), “Quyền tự do thành lập DN theo Hiến pháp”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (10) (342), tr. 28-32.
* TS. Nguyễn Văn Lâm - Viện Kinh tế và Quản lý, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
** Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số kỳ 2 tháng 3/2022