Hợp tác tài chính ứng phó với các tác động của đại dịch Covid-19
Trước diễn biến phức tạp, khó lường của đại dịch Covid-19 tác động tiêu cực đối với kinh tế khu vực và thế giới, các quốc gia trong khu vực đã áp dụng nhiều giải pháp nhằm ứng phó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời, chia sẻ, hợp tác cùng nhau vượt qua thách thức.
Trong khuôn khổ Cộng đồng kinh tế ASEAN và với các đối tác, lãnh đạo các quốc gia đã cùng nhau thảo luận và chia sẻ các sáng kiến hợp tác tài chính nhằm đảm bảo ổn định vĩ mô, nâng cao khả năng ngăn ngừa khủng hoảng và hỗ trợ tăng trưởng nhanh, bền vững trong thời gian tới.
Đại dịch Covid-19 và tác động đối với kinh tế thế giới và khu vực
Kinh tế thế giới và khu vực đang phải đối mặt với một thách thức mới xuất hiện từ cuối năm 2019, đó là đại dịch Covid-19. Dịch bệnh đã lan rộng ra nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, gây ra ảnh hưởng toàn diện đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội, tác động đến lực lượng lao động, gây thiếu hụt lao động tức thời, gián đoạn chuỗi cung ứng và lưu chuyển thương mại, sản xuất kinh doanh bị đình trệ. Tình trạng doanh nghiệp bị giảm hiệu quả, tạm ngừng hoạt động, thậm chí phá sản, giải thể tăng nhanh, ở mức cao.
Cộng đồng quốc tế đánh giá tác động của dịch Covid-19 có thể lớn gấp 3 đến 4 lần so với đại dịch SARS năm 2003, tổn thất kinh tế có thể lên tới 160 tỷ USD. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2020 khó khăn hơn, trong đó những nền kinh tế thu hút nhiều khách du lịch hoặc có quy mô thương mại lớn với các nước có dịch Covid-19 sẽ bị tác động mạnh mẽ. Nhiều quốc gia có thể sẽ có mức tăng trưởng âm kỷ lục, thậm chí xuống thấp nhất trong hơn một thập kỷ qua do chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn, cầu tiêu dùng suy giảm; sản xuất, đầu tư giảm mạnh.
Trong Báo cáo Viễn cảnh kinh tế toàn cầu (tháng 10/2020), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã đưa ra dự báo tăng trưởng toàn cầu tăng trưởng âm 4,4% vào năm 2020, thấp hơn 1,1 điểm phần trăm so với báo cáo tháng 4/2020. Tăng trưởng của nhóm các nước phát triển được dự báo là -5,8%; nhóm các nước đang phát triển và mới nổi là -3,3%; nhóm các nước có thu nhập thấp là -1,2% vào năm 2020.
Tại châu Á, tăng trưởng kinh tế trong năm 2020 được dự báo đạt mức -2,2%, trong đó các nước phát triển châu Á là -4,2%; các nước mới nổi và đang phát triển châu Á là -1,7%; ASEAN+5 là -3,4%. Nhiều quốc gia đang chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh lan rộng sẽ phải đối mặt với suy thoái kinh tế, nguy cơ khủng hoảng nợ công, khủng hoảng tài chính, gia tăng tỷ lệ người mất việc làm, nguy cơ bất ổn xã hội.
Hợp tác tài chính trong khu vực ASEAN nhằm ứng phó với đại dịch Covid-19
Trước diễn biến phức tạp và khó lường của đại dịch Covid-19 và những tác động tiêu cực đối với kinh tế khu vực và thế giới, các quốc gia trong khu vực đã áp dụng nhiều giải pháp nhằm ứng phó với tác động tiêu cực của đại dịch, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, các quốc gia cũng chia sẻ, hợp tác cùng nhau vượt qua thách thức.
Trong khuôn khổ Cộng đồng kinh tế ASEAN và với các đối tác, lãnh đạo các quốc gia đã cùng nhau thảo luận và chia sẻ các sáng kiến hợp tác tài chính nhằm đảm bảo ổn định vĩ mô, nâng cao khả năng ngăn ngừa khủng hoảng và hỗ trợ tăng trưởng nhanh, bền vững hơn trong thời gian tới. Cụ thể:
Thỏa thuận Đa phương hóa Sáng kiến Chiềng Mai
Trong khuôn khổ hợp tác khu vực, thỏa thuận đa phương hóa sáng kiến Chiềng Mai (CMIM) được các Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương các nước thành viên ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Cơ quan quản lý tiền tệ Hồng Kông tuyên bố vào ngày 24/3/2010 đã đánh dấu quá trình hợp tác tiền tệ giữa các nước trong khu vực.
Tổng giá trị ban đầu của CMIM là 120 tỷ USD và hướng đến các mục tiêu: (i) Giải quyết khó khăn về cán cân thanh toán và những khó khăn về thanh khoản trong ngắn hạn của khu vực, và (ii) Bổ sung cho các thỏa thuận tài chính quốc tế hiện có, CMIM sẽ cung cấp các hỗ trợ về tài chính thông qua các giao dịch hoán đổi tiền tệ giữa các thành viên của CMIM trong những trường hợp cần thanh khoản.
Năm 2012, ASEAN+3 đã xây dựng Thỏa thuận CMIM mới nhằm mở rộng hơn nữa vai trò tích cực và tầm ảnh hưởng của Sáng kiến này trong khu vực. Thỏa thuận mới này chính thức có hiệu lực kể từ ngày 17/7/2014. Theo đó, quy mô Quỹ CMIM mới đã được tăng gấp đôi từ 120 tỷ USD lên 240 tỷ USD, đồng thời Thỏa thuận CMIM mới đã bổ sung thêm cơ chế ngăn ngừa khủng hoảng bên cạnh cơ chế xử lý khủng hoảng hiện hành.
Theo Sáng kiến Chiềng Mai, số tiền các nước được vay từ quỹ không phụ thuộc vào số tiền đóng góp vào quỹ. Đối với các nước có trình độ phát triển hơn (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc), hệ số dùng để tính giá trị vốn vay thấp chỉ ở mức 0,5, trong khi đó đối với các các nước kém phát triển (bao gồm cả Việt Nam) hệ số trên cho thấy lợi ích của các nước này khi tham gia vào Sáng kiến Chiềng Mai.
Ngoài ra, thỏa thuận CMIM mới cho phép nâng mức cho vay không bị ràng buộc bởi các chương trình của IMF lên đến 30% tùy điều kiện cho phép, điều này cho thấy sự nới lỏng hơn trong các điều kiện vay vốn từ CMIM. Thời hạn vay và hỗ trợ cũng được kéo dài lên mức 12 tháng (với 2 lần cho gia hạn), thời gian hỗ trợ là 3 năm so với thời gian 2 năm trước đây; các khoản vay có ràng buộc bởi các chương trình của IMF cũng được nâng từ 90 ngày (3 tháng) lên 6 tháng (3 lần gia hạn), thời gian hỗ trợ là 2 năm (trước là 1 năm).
Trước những diễn biến và tác động sâu sắc chưa từng có của đại dịch Covid-19, trong khuôn khổ tiến trình hợp tác tài chính, ngân hàng khu vực ASEAN+3, Thỏa thuận CMIM sửa đổi chính thức có hiệu lực vào ngày 23/6/2020. Thỏa thuận CMIM sửa đổi lần này nhằm củng cố và hoàn thiện hơn các văn bản pháp lý và các tài liệu liên quan trong quá trình vận hành, triển khai Thỏa thuận CMIM. Các sửa đổi của thỏa thuận chủ yếu tập trung vào các vấn đề kỹ thuật, bao gồm: Hoàn thiện các quy định về thủ tục, cơ chế ra quyết định cho vay; Tăng cường sự phối hợp với IMF trong khuôn khổ các khoản vay do IMF đồng tài trợ; Cập nhật các vấn đề về kỹ thuật để phù hợp với các diễn biến mới.
Ngày 18/9/2020, Hội nghị Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương ASEAN+3 đã ra tuyên bố chung thông qua các nội dung kỹ thuật quan trọng, trong đó thống nhất củng cố hơn nữa Thỏa thuận CMIM, cụ thể: (i) Tăng tỷ lệ nhận hỗ trợ của khoản vay không gắn với IMF từ 30% lên 40%; (ii) Thể chế hóa các khoản đóng góp bằng nội tệ theo cơ chế tự nguyện và theo nhu cầu trong CMIM dành cho cả bên cung cấp hoán đổi và bên yêu cầu hoán đổi; (iii) Làm rõ Khung điều kiện CMIM cho khoản vay không gắn với IMF để tạo thuận lợi trong thực hiện Thỏa thuận CMIM.
Ngoài ra, Hội nghị cũng đã thống nhất các tài liệu hướng dẫn triển khai thực hiện Thỏa thuận CMIM, bao gồm: Sổ tay hướng dẫn thực hiện giao dịch hoán đổi CMIM; Hướng dẫn áp dụng khuôn khổ điều kiện chương trình CMIM gắn và không gắn với chương trình của IMF; Kế hoạch triển khai chạy thử nghiệm CMIM bằng tiền thật lần thứ 11.
Các kết quả nêu trên góp phần tích cực trong việc tăng tính sẵn sàng, hiệu quả hoạt động của CMIM, đáp ứng các yêu cầu mới của thị trường tài chính, hướng tới mục tiêu đưa CMIM trở thành công cụ hữu hiệu nhằm bổ sung cho mạng lưới an ninh tài chính khu vực và toàn cầu. Các kết quả hợp tác đạt được của Sáng kiến CMIM có ý nghĩa quan trọng trong việc thắt chặt hợp tác và tăng cường hỗ trợ lẫn nhau trong bối cảnh kinh tế khu vực đang đối mặt với nhiều khó khăn và bất ổn, đặc biệt là trong bối cảnh dịch Covid-19 lan rộng trên toàn cầu hiện nay.
Tăng cường cơ chế giám sát vĩ mô, phát huy vai trò Cơ quan Nghiên cứu Kinh tế Vĩ mô ASEAN + 3
Việc hình thành cơ quan giám sát Cơ quan Nghiên cứu Kinh tế Vĩ mô ASEAN + 3 (AMRO) cũng là một bước tiến đánh dấu quá trình hội nhập tài chính của khu vực. Cơ chế giám sát kinh tế vĩ mô được thực hiện định kỳ nhằm đảm bảo sự vận hành hiệu quả của CMIM.
Các nước đã thống nhất thành lập AMRO để thực hiện nhiệm vụ phân tích và giám sát kinh tế khu vực, hỗ trợ cho quá trình vận hành của CMIM. Với việc có đại diện từ các nước thành viên trong Ban điều hành nên việc tư vấn chính sách cho các nước thành viên cũng nhanh chóng và kịp thời, đồng thời cũng xóa bỏ những rào cản, tăng cường đối thoại và hợp tác với các nhà hoạch định chính sách, đem lại lợi ích cho hoạt động giám sát của AMRO.
Hiện tại, các báo cáo giám sát của AMRO được thực hiện hàng quý và được gửi trực tiếp cho các lãnh đạo cao cấp của Bộ Tài chính và Ngân hàng Trung ương. Ngoài ra, một năm hai lần (trong tháng 3 và tháng 12), các báo cáo này sẽ được trình bày và thảo luận trong cuộc họp của Thứ trưởng Bộ Tài chính và Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước các nước ASEAN+3.
Ngoài việc thực hiện các báo cáo đánh giá định kỳ, AMRO còn đưa ra các báo cáo khảo sát, phân tích trong những trường hợp cần thiết, nhằm kịp thời đưa ra các khuyến nghị chính sách. Do những tác động của đại dịch Covid-19 là rất lớn và khó lường, trong 9 tháng đầu năm 2020, AMRO đã có những phân tích và cập nhật kịp thời về tác động của dịch bệnh đối với khu vực thông qua 4 báo cáo về triển vọng kinh tế của khu vực ASEAN+3. Những phân tích đó đóng vai trò là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc hoạch định chính sách của các Chính phủ.
Trước những diễn biến khó lường của đại dịch Covid-19, tháng 8/2020, AMRO đưa ra Báo cáo theo đó đánh giá đà phục hồi của khu vực sẽ theo hình chữ U và được dẫn dắt bởi Trung Quốc. Tăng trưởng khu vực dự kiến sẽ giảm mạnh từ 4,8% trong năm 2019 xuống còn 0,1% trong năm 2020 và tăng mức lên 6,0% vào năm 2021, GDP Việt Nam được dự báo cao nhất trong khu vực khi tăng 3,1% trong năm 2020 và 7% trong năm 2021.
Theo AMRO, thách thức lớn nhất mà các nhà hoạch định chính sách ASEAN+3 phải đối mặt trong nửa cuối năm 2020 là việc cân bằng giữa nới lỏng lệnh hạn chế để vực dậy nền kinh tế và nguy cơ đối mặt một làn sóng lây nhiễm khác.
Những báo cáo trên đã phân tích và cập nhật kịp thời của AMRO về tác động của đại dịch đối với khu vực, đồng thời những phân tích trên đóng vai trò là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc hoạch định chính sách của các thành viên ASEAN+3.
Mặc dù, Chính phủ các nước trong khu vực đã thực hiện các biện pháp chính sách chưa từng có để đối phó với tác động của đại dịch Covid-19, nhưng với tình hình đại dịch Covid-19 vẫn còn diễn biến phức tạp cả về thời gian và mức độ nghiêm trọng của dịch, AMRO đưa ra khuyến nghị sau: Chi tiêu ngân sách cần được quản lý chặt chẽ và đúng mục tiêu, cùng với việc triển khai các gói kích thích tài khóa và các biện pháp cứu trợ tài chính; Các nền kinh tế có vị thế cán cân thanh toán và điều kiện tài chính khó khăn hơn cần thận trọng trong nới lỏng chính sách tiền tệ; Có thể sử dụng các công cụ hỗ trợ của Sáng kiến CMIM nhằm gia tăng dự trữ ngoại tệ thông qua các kênh trao đổi với Ngân hàng Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ và các ngân hàng trung ương khu vực.
Bên cạnh đó, các nước ASEAN cần tăng cường phối hợp chính sách để kiểm soát và điều trị ở dịch, tăng cường tác động của các biện pháp chính sách kinh tế và hỗ trợ tài chính cho các nước khi cần thiết; Cần có cam kết mạnh mẽ đối với kỷ luật tài khóa và kế hoạch chi tiêu trung hạn đáng tin cậy trong giai đoạn hậu đại dịch, để kiểm soát mức nợ trong trung và dài hạn.
Vì các vấn đề thanh khoản có thể gây nên rủi ro đối với sự ổn định tài chính trong giai đoạn cách ly xã hội, AMRO khuyến nghị các nhà hoạch định chính sách nên thực hiện các bước ưu tiên để cung cấp hỗ trợ thanh khoản khẩn cấp. Các quy định hạn chế nên được xem xét để giảm bớt áp lực đối với các tổ chức tài chính và người vay dễ bị tổn thương. Đồng thời, sự lành mạnh của các tổ chức tài chính cần được theo dõi chặt chẽ nhằm ngăn ngừa rủi ro tín dụng tăng cao, thanh khoản bị siết chặt và lợi nhuận giảm.
Ngoài ra, các chính sách đặt thù có thể được coi là một phần của bộ công cụ chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, việc thiết kế và thực hiện chính sách này, đặc biệt là đối với các thị trường mới nổi nên được thực hiện thận trọng để tránh làm giảm niềm tin của thị trường. AMRO nhấn mạnh vai trò của truyền thông trong việc đảm bảo tính hiệu quả của các chính sách trên.
Sáng kiến Thị trường Trái phiếu châu Á
Trong khuôn khổ hợp tác tài chính, sáng kiến các thị trường trái phiếu châu Á (ABMI) được đề xuất năm 2003 với mục tiêu phát triển thị trường trái phiếu của các nước châu Á và hướng tới một thị trường trái phiếu khu vực thuận lợi hơn cho cả nhà phát hành và nhà đầu tư.
Mục tiêu của ABMI được đưa ra tại Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN+3 lần thứ 11 (tháng 5/2008) bao gồm: (i) Từng nước thành viên nỗ lực và phối hợp với nhau nhằm phát triển thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ trong nước; (ii) Hướng tới một thị trường trái phiếu khu vực thuận lợi hơn cho cả nhà đầu tư và nhà phát hành.
Tại Hội nghị Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương ASEAN+3 lần thứ 23 (ngày 18/9/2020) đã ghi nhận những tiến bộ liên tục trong khuôn khổ ABMI và Lộ trình Trung hạn ABMI giai đoạn 2019-2022 trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ. ABMI tiếp tục hỗ trợ sự phát triển của các thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ nhằm giảm sự chênh lệch về tiền tệ và kỳ hạn, cũng như huy động các khoản tiết kiệm trong khu vực đề tài trợ cho đầu tư dài hạn trong khu vực.
Một trong những cấu phần chính của ABMI là Cơ chế bảo lãnh tín dụng và thuận lợi hóa đầu tư (CGIF). CGIF là một tổ chức đa phương được thành lập bởi các thành viên của ASEAN+3 và Ngân hàng Phát triển châu Á. CGIF được thành lập như là một quỹ ủy thác của ADB với mức góp vốn ban đầu là 700 triệu USD từ các thành viên.
Trong đó, Nhật Bản và Trung Quốc đóng góp 200 triệu USD, Hàn Quốc đóng góp 100 triệu USD, ADB đóng góp 130 triệu USD. 5 nước thành viên cũ của ASEAN là Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Phillippin và Singapore đóng góp mỗi nước 12,6 triệu USD, Brunei cam kết 5,6 triệu USD, Việt Nam đóng 1,1 triệu USD.
CGIF được thành lập để phát triển thị trường trái phiếu bằng đồng nội tệ và thị trường trái phiếu khu vực ASEAN+3. CGIF bắt đầu hoạt động bảo lãnh của mình vào ngày 01/5/2012 như là một cơ chế tăng cường tín dụng, chủ yếu bằng đồng nội tệ, cho những tổ chức có uy tín phát hành trái phiếu tại các nước ASEAN + 3. Ngày 5/12/2014, CGIF kết thúc thành công đợt bảo lãnh phát hành trái phiếu lần đầu tiên bằng đồng Việt Nam với tổng giá trị 2,1 nghìn tỷ đồng với thời hạn 10 năm.
Cho đến nay, CGIF đã bảo lãnh thành công cho trái phiếu phát hành bằng năm loại tiền tệ ASEAN, bao gồm: Đồng Rupiah của Indonesia, Đô la Singapore, Đồng Bạt của Thái Lan, Đồng Việt Nam và Đồng Peso Phillippines.
Hội nghị lần thứ 23 cũng đã ghi nhận những nỗ lực của CGIF nhằm hỗ trợ tài chính cho cơ sở hạ tầng, bao gồm nghiên cứu đối tác các nhà đầu tư về cơ sở hạ tầng. Hội nghị hoan nghênh việc bắt đầu thực hiện các dự án hỗ trợ kỹ thuật mới để thúc đẩy trái phiếu xanh bằng đồng nội tệ để đáp ứng như cầu phát triển cơ sở hạ tầng của khu vực, cũng như triển khai dự án hỗ trợ kỹ thuật mới nhằm tăng cường AsianBondsOnline; việc xuất bản “Các bước tiếp theo cho việc liên kết Trung tâm Lưu ký Chứng khoán và Hệ thống thanh toán trên thời gian thực trong khu vực ASEAN+3” của Diễn đàn cơ sở hạ tầng thanh toán qua biên giới (CSIF) và các nỗ lực hợp tác của CSIF và Diễn đàn tài sản thế chấp châu Á (APCF) nhằm thúc đẩy việc sử dụng tài sản thế chấp qua biên giới trong khu vực.
Hợp tác tài chính khác
Để phát triển lâu dài nhằm tăng cường ổn định kinh tế và tài chính khu vực theo hướng tạo sự phục hồi, phát triển bền vững ứng phó dài hạn với đại dịch, Hội nghị Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương ASEAN+3 lần thứ 23 (AFMGM+3) diễn ra vào ngày 18/9/2020 hoan nghênh việc triển khai các sáng kiến mới trong khuôn khổ Định hướng chiến lược Tiến trình Hợp tác Tài chính ASEAN+3, cụ thể như sau:
Một là, thúc đẩy sử dụng đồng nội tệ cho thanh toán thương mại và đầu tư, cũng như kết nối thanh toán.
Hai là, phát triển sáng kiến toàn diện về tài chính cơ sở hạ tầng.
Ba là, thiết kế các công cụ hỗ trợ để giúp các thành viên giải quyết tốt hơn các vấn đề về cấu trúc kinh tế vĩ mô.
Bốn là, hài hòa hóa các sáng kiến hợp tác tài chính chống biến đổi khí hậu như Sáng kiến cơ chế Bảo hiểm Rủi ro thiên tai.
Năm là, tăng cường phối hợp chính sách để khai thác lợi ích tiến bộ công nghệ trong việc giảm thiểu các rủi ro tài chính.
Tài liệu tham khảo:
1. Lê Quang Thuận (2018), “Xu hướng hội nhập quốc tế về tài chính và các vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính;
2. Hội đồng Lý luận Trung ương (2018), “Biến động của tình hình thế giới: Cơ hội, thách thức và Triển vọng”, NXB Chính trị quốc gia Sự thật;
3. Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XII về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới;
4. Quyết định số 40/QĐ-TTg ngày 07/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2030;
5. Tuyên bố chung Hội nghị Bộ Trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương ASEAN+3 ngày 18/9/2020;
6. Reza Siregar và Akkharaphol Chabchitrchaidol (2013), Enhancing the Effectiveness of CMIM and AMRO: Selected Immediate Challenges and Tasks.