Hợp thức hóa tài sản số, tài sản mã hóa để thu lại dòng vốn tỷ đô

Tuấn Thủy

Do chưa có cơ sở pháp lý, dòng vốn hàng trăm tỷ USD nằm trong tài sản số, tài sản mã hóa đang chảy qua các công ty nước ngoài, chưa kể hàng chục nghìn tỷ đồng rơi vào tay các đối tượng lửa đảo, gây thất thu thuế và thiệt hại lớn cho nhà đầu tư.

Việt Nam có cơ hội trở thành trung tâm về tài sản số trong khu vực và thế giới nếu có khung khổ pháp lý hoàn chỉnh.
Việt Nam có cơ hội trở thành trung tâm về tài sản số trong khu vực và thế giới nếu có khung khổ pháp lý hoàn chỉnh.

Hàng trăm tỷ USD chảy từ Việt Nam ra nước ngoài

Số liệu thống kê của CoinMarketCap cho thấy, trên toàn toàn cầu hiện nay có khoảng 2,4 triệu loại tiền mã hóa khác nhau, nhiều gấp hơn 20.000 lần số lượng các đồng tiền pháp định đang được lưu hành. Rất nhiều loại tiền trong đó thì do tư nhân tạo ra bằng các thuật toán máy tính và không được quản lý bằng các tiêu chí luật định cụ thể, nào dẫn đến rất nhiều rủi ro trong hoạt động đầu tư.

Theo Chainalysis, Việt Nam đứng thứ hai về khối lượng giao dịch tiền mã hóa, tiền số qua mạng giao dịch ngang hàng (P2P), đứng thứ ba về giá trị giao dịch qua kênh tài chính phi tập trung (DeFi) và thứ tư về giá trị giao dịch qua kênh tài chính tập trung.

Xét về người dùng tiền mã hóa, tiền số thực tế, Ấn Độ đứng đầu với 93 triệu người sử dụng hệ thống thanh toán, tiếp theo là Mỹ với 48 triệu và Việt Nam đứng thứ ba với 20 triệu người dùng. Xét về tỷ lệ dân số nắm giữ tiền điện tử, Việt Nam đứng thứ hai thế giới với 21% dân số nắm giữ tiền điện tử dưới một số hình thức. Lượng giao dịch tài sản số, tài sản mã hóa do nhà đầu tư Việt Nam sở hữu năm 2023 là khoảng 120 tỷ USD. Trong khi đó, dòng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam (FDI) chỉ đạt 25 tỷ USD (bằng khoảng 20% dòng tài sản mã hóa, tài sản số). Lượng tiền này đã tăng 20% so với con số 100 tỷ USD ở giai đoạn 2021 - 2022.

Doanh số bình quân một người dùng (user) ở Việt Nam được duy trì ở mức cao, xấp xỉ 123,5 USD/user trong giai đoạn 2017-2020, tăng mạnh lên 209,8 USD năm 2021, sau đó chững lại và duy trì ở mức từ 50 đến 80 USD giai đoạn 2022-2024.

Tuy nhiên, pháp luật Việt nam hiện chưa có khái niệm pháp lý rõ ràng về tiền mã hóa, tiền số, trong khi các quốc gia phân nhóm trong nghiên cứu này đã xác định rõ giá trị của lại hình tài sản này trong các quy phạm pháp luật. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn khẳng định tiền ảo không phải là “phương tiện thanh toán” tại Công văn số 5747/NHNN-PC ngày 21/07/2017. Việc sử dụng, phát hành hay cung ứng tiền ảo là những hành vi bị cấm, bị xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định số 96/2014/NĐ-CP.

Dưới góc độ là tài sản vô hình, tài sản ảo, tài sản số, tài sản mã số vẫn chưa được pháp luật xác định cụ thể. Điều này dẫn đến việc các chủ thể đã thông qua các sàn giao dịch tiền mã hóa quốc tế để thực hiện giao dịch, hay qua sự thỏa thuận trực tiếp khiến dòng tiền không đổ trực tiếp vào nền kinh tế trong nước mà chảy ra nước ngoài.

Không những vậy, nhiều chủ thể tham gia trao đổi, đầu tư, mua bán tiền mã hóa và thu được lợi nhuận đáng kể từ hoạt động này mà không phải thực hiện bất kỳ nghĩa vụ thuế nào đối với Nhà nước. Ngược lại, do chưa được pháp luật bảo vệ nên nhà đầu tư có thể gặp nhiều rủi ro khi có tranh chấp, thiệt hại phát sinh.

Cần khung pháp lý rõ ràng và đồng bộ

Theo TS. Phạm Thị Hồng Nhung – Học viện Tài chính, thị trường tiền mã hóa tại Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển và cần được quản lý chặt chẽ. Việc xây dựng một khung pháp lý hoàn thiện là một trong những nhiệm vụ cấp bách. Tài sản mã hóa - một sản phẩm của cuộc Cách mạng công nghệ 4.0, đã và đang tạo ra những đột phá đáng kể trong lĩnh vực tài chính.

Tuy nhiên, các vấn đề pháp lý liên quan đến tài sản mã hóa hiện nay đang là một trong những thách thức lớn đối với các nhà hoạch định chính sách và các nhà đầu tư trên toàn thế giới, bao gồm cả Việt Nam. Tính chất đặc thù của tài sản mã hóa như tính phi tập trung, biến động giá mạnh, tính ẩn danh và tính toàn cầu đã đặt ra nhiều câu hỏi về khía cạnh pháp lý.

ThS. Vương Duy Lâm - Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính) cho rằng, việc quản lý tài sản mã hóa tại Việt Nam đòi hỏi một sự thay đổi toàn diện về mặt chính sách, với mục tiêu thiết lập một khung pháp lý rõ ràng và đồng bộ. Trước hết, việc xây dựng khung pháp lý này cần được tiến hành khẩn trương, với sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Công an và Bộ Tư pháp.

Hiện nay, Việt Nam vẫn thiếu một hệ thống quy định cụ thể để điều chỉnh các hoạt động liên quan đến tài sản mã hóa, từ sở hữu, giao dịch đến quản lý. Điều này không chỉ gây khó khăn cho nhà đầu tư trong việc tuân thủ pháp luật mà còn tạo ra những lỗ hổng có thể bị lợi dụng cho các hoạt động bất hợp pháp như rửa tiền và tài trợ khủng bố.

Do đó, việc thiết lập một khung pháp lý toàn diện sẽ giúp nhà đầu tư hiểu rõ các quy định cần tuân thủ, giảm thiểu rủi ro pháp lý và ngăn chặn hiệu quả các hành vi phi pháp. Việt Nam có thể học hỏi từ các quốc gia như Singapore và Nhật Bản, nơi đã thiết lập các quy định minh bạch và chi tiết cho việc quản lý tài sản mã hóa, đồng thời phát triển các cơ chế giám sát hiệu quả để bảo vệ nhà đầu tư và hệ thống tài chính quốc gia. Tham khảo các mô hình quản lý thành công này có thể giúp Việt Nam rút ngắn thời gian xây dựng khung pháp lý, đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của các quy định mới.

Trong buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương, mới đây, Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đã đồng ý với đề xuất về việc cần sớm quản lý tiền mã hóa, tiền số dưới dạng một loại tài sản. Việc này để tránh tác động tiêu cực đến nền kinh tế xã hội, đồng thời huy động được nguồn lực và giá gi trị cho Đất nước.