Không phân biệt người khai hải quan theo loại hình hàng hóa
(Tài chính) Quy định về người khai hải quan tại Nghị định số 08/2015/NĐ-CP (Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan) không phân biệt loại hình hàng hóa nhằm mục đích thương mại, không nhằm mục đích thương mại… để tạo điều kiện hơn cho chủ hàng hóa là tổ chức, cá nhân nước ngoài không hiện diện tại Việt Nam.
Tại Điều 5 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP quy định về người khai hải quan, bao gồm:
“Chủ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Trường hợp chủ hàng hóa là thương nhân nước ngoài không hiện diện tại Việt Nam thì phải thực hiện thủ tục hải quan thông qua đại lý hải quan.
Chủ phương tiện, người điều khiển phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh hoặc người được chủ phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh ủy quyền.
Người được chủ hàng hóa ủy quyền trong trường hợp hàng hóa là quà biếu, quà tặng cá của nhân; hành lý gửi trước, gửi sau chuyến đi của người xuất cảnh, nhập cảnh.
Người thực hiện dịch vụ quá cảnh hàng hóa.
Đại lý làm thủ tục hải quan
Doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính quốc tế, dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế trừ trường hợp chủ hàng có yêu cầu khác”.
Trước đây, tại điều 5 Nghị định số 154/2005/NĐ-CP (Nghị định 154) quy định người khai hải quan gồm: Chủ hàng hóa XK, NK; tổ chức được chủ hàng hóa XK, NK ủy thác; người được ủy quyền hợp pháp (áp dụng trong trường hợp hàng hóa, vật phẩm XK, NK không nhằm mục đích thương mại); người điều khiển phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh; đại lý làm thủ tục hải quan; DN cung cấp dịch vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế.
Tuy nhiên, trong thực tế, quy định ủy quyền khai trong trường hợp hàng hóa phi mậu dịch và trong thực tế phát sinh một số trường hợp phải hướng dẫn bằng văn bản như Công ty ủy quyền cho Chi nhánh đứng tên trên tờ khai hải quan và thực hiện thủ tục hải quan, do vậy, cần bổ sung quy định cho phù hợp thực tế và thông lệ quốc tế.
Vì vậy, khắc phục bất cập từ thực tế, tại khoản 14 Điều 4 Luật Hải quan 2014 đã quy định người khai hải quan bao gồm: Chủ hàng hoá; chủ phương tiện vận tải; người điều khiển phương tiện vận tải; đại lý làm thủ tục hải quan, người khác được chủ hàng hoá, chủ phương tiện vận tải uỷ quyền thực hiện thủ tục hải quan. Luật không phân biệt loại hình hàng hóa nhằm mục đích thương mại, không nhằm mục đích thương mại.
Thực tế thời gian qua, quá trình hoạt động hải quan đã phát sinh một số vướng mắc, cụ thể đối với trường hợp chủ hàng hóa là tổ chức, cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam. Trong khi đó, Nghị định 154 chưa quy định đối tượng này là người khai hải quan. Trong cam kết gia nhập WTO, Việt Nam cho phép thương nhân không có hiện diện tại Việt Nam được quyền XK, NK hàng hóa. Đồng thời trong hoạt động thương mại quốc tế có phát sinh các điều kiện mua bán hàng hóa như EXW, FCA, DDU, DDP… và có liên quan đến trách nhiệm của người mua, người bán nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam về việc thực hiện thủ tục hải quan để XK hàng hóa.
Ví dụ: DN Việt Nam NK theo điều kiện DDP hoặc hình thức door to door, DN nước ngoài phải chịu trách nhiệm chuyên chở hàng hóa đến Việt Nam, làm thủ tục hải quan, nộp thuế và giao hàng cho người NK Việt Nam.
Tham khảo kinh nghiệm của các nước thì trong trường hợp này, chủ hàng nước ngoài phải thông qua đại lý khai thuê tại Việt Nam để thực hiện thủ tục hải quan và thủ tục với các cơ quan liên quan để thông quan hàng hóa. Việc quy định phải sử dụng đại lý trong trường hợp này đảm bảo yêu cầu quản lý của cơ quan Hải quan như thu thuế, yêu cầu cung cấp hồ sơ, hàng hóa để kiểm tra…
Bên cạnh đó, đối với trường hợp DN cung ứng dịch vụ bưu chính, chuyển phát nhanh quốc tế, theo quy định tại khoản 2 Điều 15 Luật Bưu chính 2012 thì “DN cung ứng dịch vụ bưu chính quốc tế được thay mặt người sử dụng dịch vụ bưu chính thực hiện các thủ tục XK, NK bưu gửi khi là đại diện hợp pháp của người sử dụng dịch vụ bưu chính”. Theo quy định nêu trên có thể hiểu là phải có văn bản ủy quyền thì DN cung ứng dịch vụ bưu chính mới là người đại diện hợp pháp.
Trong khi đó, quy định tại Nghị định số 154 thì người khai hải quan bao gồm DN cung ứng dịch vụ bưu chính, chuyển phát nhanh quốc tế (không cần ủy quyền của chủ hàng hóa).
Qua quá trình thực hiện cho thấy, việc quy định như tại Nghị định số 154 tuy đã tạo điều kiện thuận lợi cho DN cung ứng và người sử dụng dịch vụ bưu chính, chuyển phát nhanh quốc tế. Tuy nhiên, sẽ phát sinh vướng mắc đối với trường hợp chủ hàng hóa (người sử dụng dịch vụ bưu chính, chuyển phát nhanh) không có yêu cầu DN cung ứng dịch vụ thực hiện thủ tục hải quan đối với hàng hóa XK, NK.
Trên thực tế, các hãng chuyển phát nhanh thường phân loại đối tượng để thực hiện thủ tục hải quan: những lô hàng là chứng từ, tài liệu hoặc có trị giá thấp, không thuộc đối tượng kiểm tra chuyên ngành thì các hãng chuyển phát nhanh thực hiện thủ tục ngay, không cần liên hệ với khách hàng xem có đồng ý hay không.
Trường hợp lô hàng trị giá cao hoặc hàng hóa của tổ chức, DN thì các hãng chuyển phát nhanh liên hệ trước, nếu khách hàng đồng ý thì mới thực hiện thủ tục hải quan. Nếu khách hàng không đồng ý thì DN chuyển phát nhanh không làm thủ tục thay cho khách hàng.
Do vậy, để khắc phục bất cập trên, Nghị định 08/2015/NĐ-CP đã quy định: DN cung ứng dịch vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế trừ trường hợp chủ hàng có yêu cầu khác là người khai hải quan.
Đồng thời, trên cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, tại dự thảo Nghị định đã quy định về người khai hải quan bao gồm cả thương nhân nước ngoài không hiện diện tại Việt Nam, cụ thể:“Trường hợp chủ hàng hóa là tổ chức, cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam thì phải ủy quyền cho đại lý làm thủ tục hải quan”.