Mở rộng đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải

Thùy Linh

Bộ Tài chính đang đề xuất mở rộng và làm rõ phạm vi các đối tượng phải nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, nhằm khắc phục tình trạng danh mục hiện hành chưa bao quát hết các ngành nghề, gây vướng mắc trong thu phí.

Việc mở rộng đối tượng chịu phí  BVMT sẽ góp phần nâng cao hiệu quả và tính công bằng trong thực hiện chính sách.
Việc mở rộng đối tượng chịu phí BVMT sẽ góp phần nâng cao hiệu quả và tính công bằng trong thực hiện chính sách.

Chưa bao quát đầy đủ

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến Dự thảo Nghị định Quy định phí bảo vệ môi trường (BVMT) đối với nước thải, trong đó đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về các đối tượng chịu phí nhằm bảo đảm phù hợp pháp luật hiện hành và thực tiễn triển khai.

Theo Nghị định số 53/2020/NĐ-CP quy định phí BVMT đối với nước thải, đối tượng chịu phí BVMT gồm nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt (trừ trường hợp miễn thu phí). Nước thải công nghiệp hiện được xác định từ 14 nhóm ngành, nghề, lĩnh vực, hoạt động sản xuất, chế biến; nước thải sinh hoạt bao gồm nước thải từ hộ gia đình, cá nhân, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang và một số cơ sở dịch vụ.

Tuy nhiên, Bộ Tài chính cho rằng, cách liệt kê tên loại hình, lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, chế biến thuộc đối tượng chịu phí nước thải công nghiệp hiện nay chưa đảm bảo bao quát đầy đủ các ngành, nghề và lĩnh vực sản xuất, chế biến. Điều này dẫn đến nhiều vướng mắc trong quá trình triển khai.

Một số cơ sở có hoạt động sản xuất, chế biến nhưng không được quy định cụ thể trong danh mục, nên cho rằng không thuộc đối tượng chịu phí. Hệ quả là các cơ sở này không thực hiện kê khai, nộp phí theo quy định, gây khó khăn cho cơ quan quản lý.

Danh mục 14 nhóm ngành, nghề, lĩnh vực sản xuất, chế biến được quy định hiện hành cũng chưa bao quát toàn bộ các hoạt động xả thải đang diễn ra trên thực tế. Theo phân ngành kinh tế Việt Nam, hiện có khoảng 1.570 ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà các doanh nghiệp được phép đăng ký hoạt động, con số này cho thấy danh mục hiện tại còn hạn chế.

Bên cạnh đó, nhiều cơ sở là cá nhân hoặc hộ gia đình có hoạt động sản xuất, chế biến nhưng quy mô rất nhỏ, mang tính mùa vụ hoặc gắn với điều kiện tự nhiên và tập quán sinh sống, như chăn nuôi gia súc, gia cầm ở nông thôn và miền núi; giết mổ gia súc, gia cầm tại các khu chợ, khu dân sinh; nuôi trồng thủy sản ở đầm, ao, hồ, sông, suối, ven biển; hoặc gia công, chế biến sản phẩm truyền thống như làm bún, nấu rượu.

Trong những trường hợp này, việc thu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp chưa phù hợp và thiếu tính thực tế do hạn chế về quy mô, khả năng theo dõi, quản lý của Nhà nước, đồng thời còn liên quan tới các vấn đề an sinh xã hội. Đáng chú ý, hầu hết các cơ sở này đặt tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, nơi Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ để phát triển và nâng cao đời sống người dân.

Ngoài ra, vẫn tồn tại nhiều cơ sở sản xuất, chế biến thuộc diện chịu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp, nhưng trên thực tế, trong quá trình sản xuất lại không phát sinh nước thải công nghiệp mà chỉ có nước thải sinh hoạt từ hoạt động ăn uống, sinh hoạt của công nhân hoặc nhân viên văn phòng.

Các trường hợp này gồm ngành may mặc (quần áo, giày dép...), các cơ sở tiểu thủ công nghiệp trong làng nghề, nhà máy cấp nước sạch, gia công cơ khí không xi mạ, sản xuất văn phòng phẩm, dược phẩm, phối trộn phân bón, chế biến đồ gỗ, xay xát lúa gạo, cũng như các cơ sở sản xuất điện gió và điện mặt trời. Việc thu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp trong những trường hợp này được đánh giá là chưa phù hợp.

Cập nhật khái niệm theo pháp luật mới

Bộ Tài chính cho biết, theo Luật BVMT hiện hành và các quy chuẩn mới ban hành đầu năm 2025, khái niệm nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt đã thay đổi. Nước thải công nghiệp được hiểu rộng hơn, bao gồm cả từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung và cụm công nghiệp. Nước thải sinh hoạt bao gồm nước thải từ hoạt động sinh hoạt của con người cũng như từ một số loại hình kinh doanh, dịch vụ được quản lý như nước thải sinh hoạt.

Để phù hợp với các quy định mới và khắc phục bất cập, Bộ Tài chính đề xuất quy định tại Điều 2 Dự thảo Nghị định theo hướng: Nước thải công nghiệp là nước thải phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp theo pháp luật về BVMT. Nước thải sinh hoạt là nước thải phát sinh từ các hoạt động sinh hoạt của con người, bao gồm ăn uống, tắm, giặt, vệ sinh cá nhân hoặc từ các loại hình kinh doanh, dịch vụ được quản lý như nước thải sinh hoạt theo quy định của pháp luật.

Việc điều chỉnh này sẽ đảm bảo không bỏ sót đối tượng, đồng thời tránh thu phí đối với các trường hợp không phát sinh loại nước thải cần quản lý, qua đó nâng cao hiệu quả và tính công bằng trong thực hiện chính sách phí BVMT.

Tại Dự thảo, Bộ Tài chính cho biết, theo quy định tại Nghị định số 53/2020/NĐ-CP hiện hành, việc thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải được giao cho ba nhóm đơn vị. Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường đảm nhiệm việc thu phí đối với nước thải công nghiệp. Các công ty cấp nước sạch thu phí từ tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng nước sạch. UBND phường, thị trấn thu phí từ các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân kinh doanh tự khai thác nước.

Đối với nước thải công nghiệp, từ ngày 1/7/2025, chính quyền địa phương sẽ thực hiện mô hình tổ chức hai cấp (tỉnh và xã) theo quy định mới tại Nghị định số 131/2025/NĐ-CP và Nghị định số 125/2025/NĐ-CP. Cơ quan quản lý môi trường cấp tỉnh và cấp xã sẽ chịu trách nhiệm thu phí. Bộ Tài chính đề xuất sửa khoản 1 Điều 3 của dự thảo Nghị định để phù hợp với mô hình này.

Với nước thải sinh hoạt từ nguồn nước sạch, công tác thu phí hiện do các công ty cấp nước đảm nhiệm và được đánh giá là ổn định, hiệu quả, không phát sinh vướng mắc. Bộ Tài chính đề nghị giữ nguyên quy định này.

Riêng đối với nước thải sinh hoạt từ nguồn tự khai thác, trước ngày 1/7/2025, UBND phường, thị trấn có thẩm quyền thu phí. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhóm đối tượng này gần như không phát sinh do mạng lưới cấp nước sạch đã phủ khắp, trong khi một số địa phương không thu được phí thoát nước do thiếu cơ chế giám sát và bộ máy thu. Bộ Tài chính vì vậy đề xuất bỏ quy định giao UBND phường, thị trấn thu phí đối với nhóm này và bổ sung họ vào diện miễn phí.

Về người nộp phí, dự thảo Nghị định giữ nguyên quy định hiện hành, theo đó tổ chức, hộ gia đình và cá nhân có nước thải thuộc diện chịu phí sẽ là đối tượng nộp. Quy định này được đánh giá là phù hợp, chỉ cần rà soát và chỉnh lý để bảo đảm đồng bộ với các sửa đổi khác.