Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai

Ths. Nguyễn Văn Quý, Ban Kinh tế Trung ương

(Tài chính) Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là tài sản quan trọng của quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt cần thiết cho mọi hoạt động sản xuất và đời sống. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, các nhu cầu sử dụng đất ngày càng gây ra áp lực không nhỏ đến vấn đề đất đai, đòi hỏi phải sử dụng đất tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Thực trạng quản lý nhà nước về đất đai

Đảng và Nhà nước ta đã và đang từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về đất đai, đưa quyền sử dụng đất trở thành hàng hóa; tiếp tục mở rộng dân chủ, tạo cơ chế thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan quản lý và cán bộ quản lý; cơ chế để người dân được tham gia vào hoạt động quản lý của nhà nước, để tổ chức và cá nhân thực hiện quyền giám sát của mình.

Nhìn chung hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai ngày càng được nâng lên rõ rệt. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được ban hành khá đầy đủ; các quyết định, quy định của Nhà nước liên quan đến đất đai được thực hiện trên thực tế ngày càng cao hơn. Ý thức chấp hành pháp luật về đất đai ngày càng được nâng lên. Nhà đầu tư nước ngoài từng bước được mở rộng cơ hội trong việc tiếp cận đất đai; những bất cập về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất từng bước được khắc phục. Việc thanh tra, kiểm tra thực hiện Luật Đất đai đã được thực hiện thường xuyên và kịp thời phát hiện, xử lý những sai phạm trong quản lý, sử dụng đất đai. Việc lập, xét duyệt và triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các cấp ngày càng đi vào nền nếp.

Đến nay, trên 90,25% diện tích tự nhiên của cả nước được khai thác đưa vào sử dụng và phân bổ đáp ứng các mục đích phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng. Cả nước đã cấp được 40,8 triệu giấy chứng nhận với tổng diện tích 22,7 triệu ha, đạt 93,8% diện tích các loại đất cần cấp giấy chứng nhận. Tổng diện tích đất đã được Nhà nước giao, cho thuê và công nhận quyền sử dụng đất cho các đối tượng sử dụng là 24.996.000 ha, trong đó hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng 14.878.000 ha (59,52%); các tổ chức trong nước sử dụng 9.735.000 ha (38,95 %); tổ chức, cá nhân nước ngoài được thuê sử dụng 56.000 ha (0,22%); cộng đồng dân cư được giao 325.000 ha (1,30%). Quỹ đất sản xuất nông nghiệp được bố trí hợp lý theo nguyên tắc bảo vệ quỹ đất trồng lúa, hình thành các vùng chuyên canh phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của từng vùng. Diện tích đất nuôi, trồng thủy sản tăng(1) góp phần nâng sản lượng nuôi, trồng thủy sản(2), đáp ứng đủ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu thủy sản lớn trên thế giới (đứng thứ 6 trong top 10 nước đứng đầu). Đất lâm nghiệp trong 10 năm qua liên tục tăng, diện tích đất lâm nghiệp tăng góp phần nâng độ che phủ từ 35,2% năm 2000 lên 39,5% năm 2010, đến nay đạt gần 41%.

Quỹ đất dành cho phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị được mở rộng. Diện tích đất khu công nghiệp, cụm công nghiệp hiện có gần 100 nghìn ha(3) giai đoạn 2006 - 2010, bình quân mỗi năm tăng 9,4 nghìn ha, đáp ứng được yêu cầu thu hút nhà đầu tư. Diện tích đất chưa sử dụng của cả nước từng bước được khai thác đưa vào trồng rừng một cách hợp lý, bảo đảm yêu cầu cân bằng hệ sinh thái và bảo vệ môi trường.

Nguồn thu từ đất đai cho ngân sách nhà nước tăng qua các năm (năm 2002 là 5,5 nghìn tỷ đồng, năm 2005 đạt gần 18 nghìn tỷ đồng, năm 2006 đạt gần 21 nghìn tỷ đồng, năm 2007 đạt gần 37 nghìn tỷ đồng, năm 2008 đạt trên 40 nghìn tỷ đồng, năm 2009 đạt gần 47 nghìn tỷ đồng và năm 2010 đạt 67 nghìn tỷ đồng).

Thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai còn góp phần giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an sinh xã hội, tạo được nhiều việc làm, ổn định đời sống cho người dân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số tồn tại sau:

- Việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương trong quản lý, sử dụng đất chưa nghiêm. Có không ít những quy định của pháp luật đất đai và những quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến đất đai không được thực thi hoặc thực thi một cách hình thức. Nhiều bản án, quyết định liên quan đến đất đai đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được thi hành. Chế tài xử lý vi phạm pháp luật về đất đai còn thiếu và chưa đủ mạnh để răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm.

- Nguồn lực đất đai chưa được khai thác và phát huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp còn rất thấp, trong khi đây là một nguồn thu chính từ đất để phát triển kinh tế - xã hội. Việc sử dụng đất ở nhiều nơi còn lãng phí, hiệu quả thấp. Các quy định của pháp luật chưa bảo đảm giải quyết hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư.

- Chất lượng quy hoạch sử dụng đất chưa cao, chưa đồng bộ với các quy hoạch chuyên ngành, tính kết nối liên vùng, liên tỉnh và quản lý quy hoạch còn yếu. Nhiều quyết định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thiếu khả thi, tình trạng quy hoạch "treo" xảy ra ở nhiều nơi.

- Thị trường quyền sử dụng đất phát triển thiếu lành mạnh, giao dịch “ngầm” khá phổ biến. Nhu cầu nhà ở, đất ở cho các đối tượng chính sách xã hội, cán bộ công chức, người có thu nhập thấp chưa được đáp ứng đầy đủ. Hiện nay Nhà nước mới chỉ quản lý được các thửa đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà chưa quản lý được các thửa đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất nhưng không đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền.

- Quy định về việc phải công khai, minh bạch thông tin quản lý theo Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản pháp luật khác có khá nhiều nội dung được thực hiện với tỷ lệ rất thấp(4). Quy trình lấy ý kiến của dân đối với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp xã gần như không được thực hiện.

- Mục tiêu hoàn thành cơ bản việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2007 không đạt được, sau nhiều lần gia hạn, nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thành. Tại các đô thị lớn, đất có giá cao, người muốn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất luôn gặp phải khó khăn. Còn ở các vùng nông thôn, miền núi giá đất thấp, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã ký nhưng người sử dụng đất không muốn nhận do phải nộp tiền.

- Đầu cơ đất đai diễn ra nghiêm trọng, tình trạng tham nhũng trong quản lý đất đai được đánh giá là ở nhóm đầu(5), khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai chiếm tỷ lệ cao tới 70% - 80% tổng số khiếu nại, tố cáo của công dân.

2- Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai

Để góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai cần quan tâm thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai, trong đó tăng cường chế tài xử lý vi phạm pháp luật đủ mạnh để răn đe, phòng ngừa vi phạm, đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước, giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm.

Hai là, sử dụng đồng bộ các công cụ quản lý: pháp luật, quy hoạch, tài chính và hành chính trong quản lý đất đai bảo đảm các quan hệ đất đai vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Tăng cường áp dụng các biện pháp kinh tế (thuế, phí và cơ chế tài chính khác...), hạn chế việc áp dụng các biện pháp hành chính để điều tiết vĩ mô các hành vi của con người liên quan đến đất đai. Tăng cường việc đấu giá quyền sử dụng đất, đầu thầu các dự án có sử dụng đất. Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách hình thành các nguồn thu mới từ đất đai để đất đai thực sự trở thành nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội.

Ba là, đổi mới công tác lập quy hoạch, nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo hướng tiếp cận phương pháp tiên tiến. Quan tâm đến vấn đề kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường, mục tiêu bảo đảm an ninh lương thực, có tính đến tác động của biến đổi khí hậu. Tạo sự đồng bộ giữa quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch xây dựng, trong đó có phân tích không gian nhu cầu sử dụng đất và công khai, tham vấn các bên liên quan trong quá trình lập quy hoạch.

Hoàn thiện hệ thống thông tin đất đai, cơ sở dữ liệu đất đai và hệ thống hồ sơ địa chính theo hướng hiện đại, theo mô hình tập trung, thống nhất trên phạm vi cả nước, phục vụ đa mục tiêu, bảo đảm công khai, minh bạch. Chuyển dần các hoạt động đăng ký, giao dịch trong lĩnh vực đất đai sang giao dịch điện tử.

Bốn là, nghiên cứu, xây dựng cơ chế định giá đất, phù hợp với thực tế để làm căn cứ tính thuế, phí, cho thuê, bồi thường thiệt hại. Tổ chức thực hiện theo dõi, cập nhật biến động giá đất trên thị trường. Từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu về giá đất tới từng thửa đất gắn với cơ sở dữ liệu đất đai. Công khai giá trị bất động sản trong hệ thống tính thuế, phí và các nghĩa vụ tài chính có liên quan.

Năm là, tiếp tục hoàn thiện những quy định của pháp luật bảo đảm hài hòa các lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư. Nghiên cứu áp dụng các cơ chế tài chính điều tiết phần giá trị gia tăng của đất không phải do chủ đầu tư mà do Nhà nước xây dựng kết cấu hạ tầng hoặc do quy hoạch tạo nên để phục vụ mục đích công. Xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp để Nhà nước kiểm soát được tất cả các hoạt động giao dịch đất đai nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, hạn chế tối đa, tiến đến xóa bỏ tình trạng giao dịch “ngầm” về đất đai.

Sáu là, tiếp tục hoàn thiện các quy định, đồng thời thực hiện đầy đủ cơ chế lấy ý kiến của nhân dân về việc lập và điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, lập phương án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, cũng như các phương án khác có liên quan tới lợi ích của người dân bảo đảm thực sự công khai, minh bạch, khắc phục tình trạng “lợi ích nhóm” trong các hoạt động quản lý, sử dụng đất.

Bảy là, xây dựng nền hành chính thực sự minh bạch, hiệu quả bảo đảm thực hiện tốt các hoạt động quản lý nhà nước và các dịch vụ công về đất đai sao cho thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp. Quan tâm đến nhu cầu sử dụng đất của doanh nghiệp vừa và nhỏ, người nghèo và các đối tượng dễ bị tổn thương khác. Tổ chức tốt việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và các vấn đề xã hội liên quan đến đất đai./.

-------------------------------------------

(1) Diện tích đất nuôi trồng thủy sản năm 2010 là 690.221 ha tăng 322 nghìn ha so với năm 2000 (bình quân tăng 32,2 nghìn ha/năm) chủ yếu do chuyển đổi từ đất trồng lúa, rừng ngập mặn sang

(2) Sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng từ 589,6 nghìn tấn năm 2000 lên 2.707 nghìn tấn năm 2010

(3) Trong gần 100 nghìn ha đất công nghiệp có 72 nghìn ha đất khu công nghiệp do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập (tỷ lệ lấp đầy bình quân đạt gần 46%); 28 nghìn ha đất cụm công nghiệp do Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập

(4) Theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới năm 2010 ở 63 Ủy ban nhân dân tỉnh, 3 Bộ, 24 Ủy ban nhân dân huyện, 117 Ủy ban nhân dân xã

(5) Theo kết quả khảo sát xã hội học được Thanh tra Chính phủ và Ngân hàng thế giới công bố ngày 20-11-2012