Nâng cao hiệu quả thi hành quy định pháp luật về quyền sử dụng đất lâm nghiệp ở Việt Nam


Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật hiện hành quy định rõ ràng và tương đối đầy đủ về các nội dung liên quan đến quyền sử dụng đất lâm nghiệp.

Các quy định pháp luật đã có sự bảo vệ nghiêm ngặt và khuyến khích phát triển đất lâm nghiệp, tạo thuận lợi cho các chủ thể khai thác tối đa công dụng của đất lâm nghiệp để thu lại lợi ích và bảo đảm lợi ích của Nhà nước.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, vẫn còn tồn tại những hạn chế, bấp cập trong triển khai các quy định về quyền sử dụng đất nói chung và đất lâm nghiệp nói riêng. Để khắc phục những tồn tại, hạn chế này, cần có những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành quy định pháp luật về quyền sử dụng đất lâm nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

Thực thi pháp luật về quyền sử dụng đất lâm nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Việt Nam với 3/4 lãnh thổ là đồi núi, đất lâm nghiệp chiếm 75% trong tổng số 26,2 triệu ha đất nông lâm nghiệp; là nơi cư trú, tạo sinh kế của hơn 25 triệu dân, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo.

Trong những năm qua, với việc áp dụng các quy định của Luật Đất đai, Luật Lâm nghiệp và một số văn bản khác có liên quan đến quyền sử dụng đất lâm nghiệp, việc giao cũng như việc sử dụng đất lâm nghiệp của đã được ổn định hơn, cùng với đó là việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất lâm nghiệp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã đạt hiệu quả cao với phương châm “đạt lý, thấu tình” đảm bảo quyền lợi của các chủ thể có quyền sử dụng đất lâm nghiệp. Cụ thể:

- Về giao quyền sử dụng đất lâm nghiệp: Giao đất lâm nghiệp là một chính sách đúng đắn nhằm mục tiêu phát triển lâm nghiệp và góp phần xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam gần 20 năm qua. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều vấn đề nảy sinh từ thực tế trong quá trình thực hiện giao đất lâm nghiệp đòi hỏi phải có những sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với đặc thù sản xuất lâm nghiệp của từng vùng trong thời kỳ mới.

Tại khoản 1, Điều 135, Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Nhà nước giao đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên cho tổ chức quản lý rừng để quản lý, bảo vệ và phát triển rừng”. Cụm từ “tổ chức quản lý rừng” không giải thích trong Luật Đất đai. Trong khi đó, tại Điều 16 Luật Lâm nghiệp quy định, Nhà nước chỉ giao rừng sản xuất là rừng tự nhiên cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư.

Ban quản lý rừng đặc dụng, Ban quản lý rừng phòng hộ chỉ được giao đối với diện tích rừng sản xuất xen kẽ trong diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ được giao cho ban quản lý rừng đó, còn tổ chức kinh tế phải thực hiện thuê rừng. Mặt khác, tại Điều 136 Luật Đất đai năm 2013 quy định, Nhà nước giao đất rừng phòng hộ cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, tại Điều 16 Luật Lâm nghiệp quy định, Nhà nước chỉ giao rừng phòng hộ cho đối tượng là tổ chức kinh tế đối với rừng phòng hộ xen kẽ trong diện tích rừng sản xuất của tổ chức đó.

Cùng với đó, tại khoản 1, Điều 137 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Nhà nước giao đất rừng đặc dụng cho tổ chức quản lý rừng đặc dụng để quản lý, bảo vệ theo quy hoạch... ”, trong đó, không giải thích cụm từ “tổ chức quản lý rừng” là tổ chức nào (có thể chỉ hiểu là Ban Quản lý rừng đặc dụng hay còn tổ chức khác). Trong khi đó, tại khoản 1, Điều 16 Luật Lâm nghiệp quy định giao rừng đặc dụng không thu tiền sử dụng rừng cho các đối tượng cụ thể (Ban quản lý rừng đặc dụng, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang...

- Về cho thuê đất lâm nghiệp: Tại điểm a, khoản 2, Điều 174 Luật Đất đai quy định: “Tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê... có các quyền sau đây: Chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất...”. Trong khi đó, tại Điều 79 Luật Lâm nghiệp quy định tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê rừng sản xuất không có quyền chuyển nhượng rừng.

- Về cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất lâm nghiệp: Nhờ những sửa đổi, bổ sung mang tính ưu việt của Luật Đất đai năm 2013 nên quyền được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận đã được thực hiện tốt hơn trong thực tế. Đến nay, cả nước đã cơ bản hoàn thành việc cấp Giấy chứng nhận lần đầu cho hầu hết các đối tượng đang sử dụng đất dựa trên các loại bản đồ khác nhau (bản đồ địa hình, bản đồ ảnh, sơ đồ, bản trích đo địa chính, bản đồ địa chính...), đạt tỷ lệ 96,9% diện tích cần cấp; trong đó đất lâm nghiệp đạt 98,2%.

Tuy nhiên, hồ sơ đăng ký giấy chứng nhận lần đầu hiện nay đa số thuộc trường hợp sử dụng đất không có giấy tờ theo quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013. Trong quá trình sử dụng đất, người sử dụng đất đã chuyển nhượng qua nhiều người, việc thiết lập giấy tờ của công dân không có đầy đủ các giấy tờ để chứng minh thời điểm sử dụng đất ổn định theo quy định tại khoản 2, Điều 21 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ gây khó khăn trong quá trình thẩm tra của các cơ quan.

- Về điều kiện thực hiện quyền sdụng đất lâm nghiệp: Theo quy định tại Khoản 1, Điều 188, Luật Đất đai năm 2013 thì các chủ thể được thực hiện các giao dịch chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp; góp vốn bằng quyền sử dụng đất lâm nghiệp khi có các điều kiện sau đây: Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp; Đất không có tranh chấp; Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án; Trong thời hạn sử dụng đất.

Trong những năm gần đây, với sự đoàn kết, nỗ lực trong công tác giải quyết tranh chấp đất đai, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ở các địa phương đã đạt được những kết quả đáng kể, giải quyết được số lượng lớn các tranh chấp về đất đai trồng rừng, giải quyết dứt điểm nhiều vụ phức tạp, tồn đọng, kéo dài, xử lý kịp thời những điểm nóng phát sinh.

Có thể thấy, so với các điều kiện còn lại thì điều kiện đất không có tranh chấp là điều kiện không rõ ràng. Vấn đề đặt ra là dựa trên căn cứ nào để xác định đất không có tranh chấp? Để xác định thửa đất không có tranh chấp có cần cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hay không? Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành đều không có quy định cụ thể về vấn đề này.

- Về thu hồi và bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất lâm nghiệp: Để đảm bảo phát triển bền vững kinh tế - xã hội đất nước, thì thu hồi diện tích lớn đất lâm nghiệp để phục vụ cho các lợi ích công cộng và phát triển công nghiệp, dịch vụ là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, do sự không chặt chẽ, rõ ràng, đầy đủ của các quy định của Luật Đất đai năm 2013 về thu hồi đất đã dẫn đến hàng loạt những tiêu cực xảy ra như: Thu hồi đất lâm nghiệp diễn ra một cách ồ ạt mà không sử dụng để đất bị hoang hóa; bồi thường cho người có đất bị thu hồi không thỏa đáng; thiếu công khai trong thu hồi đất... làm cho tình trạng khiếu kiện phức tạp với số lượng lớn, kéo dài.

Trong những năm gần đây, với sự đoàn kết, nỗ lực trong công tác giải quyết tranh chấp đất đai, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ở các địa phương đã đạt được những kết quả đáng kể, giải quyết được số lượng lớn các tranh chấp về đất đai trồng rừng, giải quyết dứt điểm nhiều vụ phức tạp, tồn đọng, kéo dài, xử lý kịp thời những điểm nóng phát sinh.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp ở Việt Nam đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế sau:

Thứ nhất, phần lớn các vụ việc tranh chấp đất đai trải qua nhiều thời kỳ thực hiện chính sách đất đai, hồ sơ tài liệu phân tán, hiện trạng đất thay đổi nên khó xác định nguồn gốc; trong khi đó, hệ thống pháp luật đất đai chưa đồng bộ dẫn đến việc áp dụng thiếu nhất quán. Biên chế của lực lượng làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai có hạn, nên không thể giải quyết tất cả các vụ việc theo thời hạn luật định, do đó vẫn còn những vụ việc tồn đọng, kéo dài.

Thứ hai, có một số ít bản án, quyết định của Tòa án thể hiện chất lượng xét xử chưa tốt, xét xử không đúng thẩm quyền, ra phán quyết không dựa trên cơ sở pháp luật, xác định sai nguồn gốc tài sản (đất đai) tranh chấp, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng như đánh giá chứng cứ chưa chính xác, chưa xác minh quá trình sử dụng đất có thay đổi, biến động về diện tích dẫn đến nhiều vụ án phải xét xử đi, xét xử lại nhiều lần.

Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành quy định pháp luật về quyền sử dụng đất lâm nghiệp

Để nâng cao hiệu quả thi hành quy định pháp luật về quyền sử dụng đất lâm nghiệp ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền, phổ biến quy định pháp luật về quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho người dân.

Tuyên truyền, phổ biến quy định pháp luật về quyền sử dụng đất lâm nghiệp để các chủ thể hiểu rõ hơn về quyền, nghĩa vụ của mình mà pháp luật quy định, từ đó có thể chủ động thực hiện khai thác, sử dụng đất lâm nghiệp một cách hiệu quả nhất và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước, với các chủ thể sử dụng đất khác.

Thứ hai, nâng cao trình độ chuyên môn cán bộ, công chức thực thi pháp luật liên quan đến quyền sử dụng đất lâm nghiệp.

Cần rà soát, kiểm tra năng lực chuyên môn của cán bộ, công chức hiện đang phụ trách công tác quản lý nhà nước về đất đai ở cả Trung ương và địa phương. Trên cơ sở kết quả kiểm tra, nếu như không đạt yêu cầu thì phải kiên quyết thực hiện tinh giản biên chế. Bên cạnh đó, thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng các nội dung mới của quy định pháp luật về quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho cán bộ, công chức làm công tác quản lý đất đai…

Thứ ba, tăng cường thanh tra, kiểm tra đối với việc thực thi quy định pháp luật về quyền sử dụng đất lâm nghiệp.

Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người có thẩm quyền sẽ có trách nhiệm thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành. Về phía các chủ thể có quyền sử dụng đất, cần nâng cao trách nhiệm thực hiện quyền, nghĩa vụ một cách đầy đủ nếu không sẽ bị gánh chịu những chế tài bất lợi hoặc có thể bị chấm dứt quyền sử dụng đất. Qua việc thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát thì sẽ kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người dân và những thiếu sót, hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành sẽ được thể hiện rõ từ đó làm cơ sở để sửa đổi, bổ sung thêm hoàn thiện.

Thứ tư, giảm thời gian thực hiện, đơn giản hoá thành phần hồ sơ các thủ tục hành chính liên quan đến giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng lâm nghiệp.

Tiếp tục giảm thời gian thực hiện, đơn giản hoá thành phần hồ sơ các thủ tục hành chính liên quan đến giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng lâm nghiệp, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các thủ tục hành chính liên quan đến việc các chủ thể thực hiện các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất lâm nghiệp. Ví dụ: Áp dụng việc thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai trực tuyến, các giấy tờ liên quan được chuyển về cơ quan giải quyết và trả kết quả thông qua dịch vụ chuyển phát nhanh...

Tựu chung, ở Việt Nam hiện nay, pháp luật hiện hành quy định rõ ràng và tương đối đầy đủ về các nội dung liên quan đến quyền sử dụng đất lâm nghiệp. Các quy định pháp luật đã có sự bảo vệ nghiêm ngặt và khuyến khích phát triển đất lâm nghiệp, điều này đã tạo thuận lợi cho các chủ thể khai thác tối đa công dụng của đất lâm nghiệp để thu lại lợi ích và bảo đảm lợi ích của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những hạn chế, bấp cập về pháp luật về quyền sử dụng đất nói chung và đất lâm nghiệp nói riêng. Để các quy định pháp luật về quyền sử dụng đất lâm nghiệp đi vào cuộc sống và phát huy được hiệu quả như mong muốn thì phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII;

2. Luật Đất đai 2013, NXB Lao động, H.2014.

3. Luật Lâm nghiệp 2017, NXB chính trị Quốc gia, H.2019;

4. Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ “Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai”, H.2014;

5. Huỳnh Tấn Anh (2006), Thực trạng và giải pháp quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp của Lâm trường Thuận An huyện Đắc Song, tỉnh Đắc Nông, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Trường Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội;

6. Nguyễn Văn Hiến (2016), Thực trạng pháp luật về chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 8/2016;

7. Nguyễn Thành Luân (2020), Quyền sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.

(*) Nguyễn Hữu Nguyên Xuân, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng, Nguyễn Thị Thu Hiền - Trường Đại học Lâm nghiệp, Phân hiệu tại tỉnh Đồng Nai.

(**) Bài đăng Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 6/2021.