Nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch tỉnh Bình Thuận
Du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam. Ngành Du lịch cả nước nói chung và của tỉnh Bình Thuận nói riêng đã và đang góp phần đáng kể vào tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội của đất nước. Bài viết đánh giá thực trạng phát triển sản phẩm du lịch đặc thù cùng với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch ở tỉnh Bình Thuận. Bằng việc sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, bài viết đề cập đến cơ sở lý luận và thực trạng của việc xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch đặc thù, từ đó kiến nghị một số giải pháp để phát triển sản phẩm du lịch đặc thù, nâng cao tính cạnh tranh của ngành Du lịch Bình Thuận trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập hiện nay.
Cơ sở lý luận
Trong lĩnh vực du lịch, năng lực cạnh tranh điểm đến là một khái niệm đa chiều, nó có thể được xem xét từ ba cấp độ khác nhau: Quốc gia; địa phương và doanh nghiệp. Trong phạm vi bài viết, tác giả chỉ đề cập đến năng lực cạnh tranh điểm đến theo cấp độ địa phương. Sức cạnh tranh là tổng hoà các đặc tính về tiêu dùng và giá trị vượt trội của sản phẩm trên thị trường, có nghĩa là sự vượt trội của sản phẩm so với các sản phẩm cạnh tranh cùng loại trong điều kiện cung vượt cầu.
Theo M. Porter, năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng lực đặc biệt của mình để tạo ra sản phẩm có giá phí thấp và sự khác biệt của sản phẩm. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh, cần phải xác định lợi thế cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh của sản phẩm được hiểu là những thế mạnh mà sản phẩm có hoặc có thể huy động để đạt hiệu quả trong cạnh tranh. Thông thường, có hai nhóm lợi thế cạnh tranh, gồm:
- Lợi thế về chi phí: Tạo ra sản phẩm có chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh. Các nhân tố sản xuất như đất đai, vốn và lao động thường được xem là nguồn lực để tạo lợi thế cạnh tranh.
- Lợi thế về sự khác biệt: Dựa vào sự khác biệt của sản phẩm làm tăng giá trị cho người tiêu dùng, hoặc giảm chi phí sử dụng sản phẩm, hoặc nâng cao tính hoàn thiện khi sử dụng sản phẩm. Lợi thế này cho phép thị trường chấp nhận mức giá thậm chí cao hơn đối thủ. Sự khác biệt về sản phẩm là khả năng cung ứng giá trị ưu việt và độc đáo cho người mua về chất lượng cũng như tính năng sản phẩm.
Một yếu tố quan trọng nữa đó là việc lựa chọn vị thế cạnh tranh để định vị, nhất là việc xác định phạm vi. Trong ngành Du lịch phạm vi rất quan trọng vì tính phân tán. Phạm vi được xác định theo vùng địa lý, sản phẩm, kênh phân phối, loại khách du lịch. Trong lĩnh vực cạnh tranh, cũng cần phải đề cập đến khái niệm năng lực cạnh tranh tuyệt đối và năng lực cạnh tranh tương đối. Năng lực cạnh tranh tuyệt đối là những điều kiện đặc trưng riêng của một vùng hay quốc gia mà đối thủ không có được, cũng như khả năng xác định được chính xác vị trí của mình trong cạnh tranh.
Như vậy, năng lực cạnh tranh du lịch của một điểm đến là điểm đến đó phải tối ưu hóa sự hấp dẫn của mình đối với người lưu trú và người không lưu trú trú, nhằm cung cấp chất lượng, sự sáng tạo và hấp dẫn dịch vụ du lịch (ví dụ như việc cung cấp hàng hóa tương xứng với đồng tiền bỏ ra) cho người tiêu dùng nhằm đạt được thị phần trên thị trường nội địa và toàn cầu, đồng thời đảm bảo rằng nguồn lực sẵn được sử dụng một cách hiệu quả và bền vững (Dupeyras và MacCallum, 2013).
Đối với việc phân tích năng lực cạnh tranh của một quốc gia, ngoài việc xác định những năng lực và tiềm năng du lịch đặc trưng, cần phải so sánh năng lực tương đối của các sản phẩm du lịch. Trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, một sản phẩm du lịch có thể được định nghĩa là tổng hòa của sự hài lòng vật lý và tâm lý mà nó cung cấp cho khách du lịch trong quá trình tham quan. Các sản phẩm du lịch tập trung vào các cơ sở và dịch vụ được thiết kế để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Nó được xem như một sản phẩm tổng hợp mà kết quả được đo đếm bằng sự hài lòng của khách hàng. Mỗi thành phần của một sản phẩm du lịch được cung cấp bởi các nhà cung cấp dịch vụ cá nhân khác nhau như công ty khách sạn, hãng hàng không, đại lý du lịch.
Theo nghiên cứu của Phạm Trung Lương, sản phẩm du lịch đặc thù được phát triển dựa trên tính độc đáo/duy nhất, nguyên bản và đại diện về tài nguyên du lịch (tự nhiên và nhân văn) cho một lãnh thổ/điểm đến du lịch với những dịch vụ không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu/mong đợi của du khách mà còn tạo được ấn tượng bởi tính độc đáo và sáng tạo.
Phương pháp nghiên cứu
Bằng việc sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính (thống kê, mô tả và so sánh), bài viết đề cập đến cơ sở lý luận và thực trạng của việc xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch đặc thù, từ đó kiến nghị giải pháp để phát triển sản phẩm du lịch đặc thù, nâng cao tính cạnh tranh của điểm đến Bình Thuận trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Kết quả nghiên cứu cho thấy, du lịch Bình Thuận đã có những bước phát triển đáng ghi nhận với tốc độ tăng trưởng khả quan về số lượng khách du lịch, phát triển dịch vụ trong giai đoạn 2010 - 2017.
Kết quả nghiên cứu
Kết quả nổi bật của ngành Du lịch
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của xã hội, hoạt động du lịch đã trở thành một hiện tượng phổ biến và phát triển với tốc độ ngày càng nhanh. Hiện nay, Du lịch được xác định là Ngành tạo ra nhiều việc làm, thu hút khoảng 227 triệu lao động trực tiếp, chiếm 10,9% lực lượng lao động thế giới - cứ 9 lao động thì có 1 người làm nghề du lịch… Năm 2016, lượng khách du lịch quốc tế trên phạm vi toàn cầu đã đạt 1,23 tỷ lượt khách, chiếm hơn 30% xuất khẩu dịch vụ thương mại của thế giới (UNWTO, 2017). Theo dự báo của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), trong giai đoạn 2010 -2030, số lượng khách du lịch quốc tế sẽ tăng trung bình 3,3%/năm. Đến năm 2020, du lịch sẽ trở thành ngành kinh tế “công nghiệp” chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu những ngành xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ với gần 1,4 tỷ lượt khách du lịch. Năm 2023 sẽ đạt khoảng 1,5 tỷ lượt và năm 2030 khoảng 1,8 tỷ lượt khách du lịch.
Bình Thuận là địa phương có nhiều loại hình, sản phẩm du lịch có tiềm năng như: Du lịch sinh thái biển, đảo; du lịch nghĩ dưỡng, chữa bệnh, tắm khoáng nóng; du lịch ẩm thực; du lịch tâm linh; du lịch văn hóa (gồm quần thể tháp Chăm Pôsah Inư, lễ hội độc đáo: Lễ hội Nghinh ông, Đua thuyền, Mbăng Katê, Trung thu…). Đặc biệt, là quần thể tự nhiên độc đáo như: Đồi cát bay Mũi Né, Đồi cát Hòa Thắng, Đồi Hồng, Bàu Trắng, Suối Tiên…
Ở Việt Nam, ngành Du lịch tuy đã hình thành và phát triển gần 60 năm, song hoạt động du lịch chỉ thực sự diễn ra sôi động với tư cách là một ngành kinh tế từ thập kỷ 90 của thế kỷ trước gắn liền với chính sách mở cửa hội nhập của Đảng và Nhà nước. Vai trò và vị trí của ngành Du lịch được xác định: "Phát triển du lịch là một chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (Chỉ thị số 46/CT-TW Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VII, 10/1994) và “phát triển du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn”(Văn kiện Đại hội Đảng IX). Đến Đại hội Đảng X tiếp tục nhấn mạnh việc đẩy mạnh phát triển du lịch, tạo bước đột phá, góp phần thực hiện mục tiêu sớm đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng kém phát triển.
Quan điểm của Đảng đối với phát triển du lịch ở Việt Nam tiếp tục được khẳng định tại Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị.
Theo đó, phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn là định hướng chiến lược quan trọng để phát triển đất nước, tạo động lực thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực khác. Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 103/NQ-CP về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW. Nghị quyết số 103/NQ-CP đã tạo động lực, nâng cao nhận thức trong hành động, hỗ trợ và thúc đẩy cho sự phát triển của ngành Du lịch. Quốc hội và Chính phủ đã hiện thực hoá quan điểm của Đảng bằng hệ thống chính sách mà điển hình là việc Pháp lệnh Du lịch được ban hành năm 1999, tiếp đó được thay thế bằng Luật Du lịch (năm 2005) và gần đây là Luật Du lịch sửa đổi (năm 2017) kèm theo các nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện. Chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010 cũng đã được thực hiện trong những năm 1990. Tiếp đó, năm 2011, Chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Nhằm tăng cường hiệu lực phối hợp liên ngành, Ban Chỉ đạo Nhà nước về Du lịch cũng được thành lập từ những năm 2000.
Với sự quan tâm và sát sao chỉ đạo triển khai các chiến lược của Đảng và Nhà nước, thời gian qua, đặc biệt từ những năm 90 của thế kỷ XX, du lịch Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng, đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội. Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam thời gian qua liên tục tăng, riêng năm 2017 Việt Nam đã đón gần 13 triệu lượt khách quốc tế; thu nhập từ du lịch đạt trên 500.000 tỷ đồng, tương đương 23 tỷ USD, đóng góp khoảng 7,5% GDP của đất nước; dự kiến tỷ lệ này sẽ tăng lên 9,7% vào năm 2020 (WTTC, 2017). Trong thành công chung đó, du lịch Bình Thuận đã có những bước phát triển đáng ghi nhận, với tốc độ tăng trưởng trung bình về khách du lịch giai đoạn 2010-2017, đạt 10,38% cao hơn bình quân cả nước và vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Năm 2017, Bình Thuận đón 5,11 triệu lượt khách, trong đó có hơn 2,3 triệu lượt khách quốc tế; thu nhập từ du lịch đạt trên 10.812 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2016. Nhìn chung, phát triển du lịch của Bình Thuận bước đầu đã có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội, tạo thêm nhiều việc làm cho người dân địa phương...
Mặc dù, đạt được những kết quả đáng ghi nhận, nhưng sự phát triển của du lịch Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và kỳ vọng. Có nhiều nguyên nhân được đề cập, trong đó, đến nay hệ thống sản phẩm du lịch đặc thù ở cấp quốc gia, vùng và địa phương còn chưa phát triển. Đây chính là nguyên nhân của tình trạng trùng lặp về sản phẩm du lịch giữa các vùng, giữa các địa phương có đặc điểm địa lý tương đồng, qua đó làm hạn chế tính hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của điểm đến du lịch Việt Nam nói chung và của từng địa phương nói riêng, trong đó có Bình Thuận. Trong thực tế, vấn đề xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch, nhất là sản phẩm du lịch đặc thù của du lịch Bình Thuận hiện nay còn gặp không ít khó khăn. Do vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh giai đoạn tới cho từng vùng, từng địa phương, đặc biệt là các địa phương trọng điểm có vai trò quan trọng đối với phát triển du lịch Việt Nam như Bình Thuận cần tập trung phát triển mạnh các sản phẩm du lịch đặc thù.
Phát triển sản phẩm du lịch gắn với nâng cao năng lực cạnh tranh
Bình Thuận là địa phương thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, nằm trong tam giác tăng trưởng du lịch là TP. Hồ Chí Minh - Đà Lạt - Phan Thiết, nơi có nhiều tiềm năng du lịch đặc sắc và điều kiện tổ chức du lịch quanh năm với nhiều địa danh nổi tiếng thu hút khách tới tham quan như: Mũi Né, Bàu Trắng, Mũi Điện, Tà Cú… Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, xác định Bình Thuận là một trong những địa phương trọng điểm, đóng vai trò quan trọng không chỉ đối với phát triển du lịch vùng Duyên hải Nam Trung Bộ mà còn của cả du lịch Việt Nam. Bình Thuận là địa phương có nhiều loại hình, sản phẩm du lịch có tiềm năng như: Du lịch sinh thái biển, đảo; du lịch nghĩ dưỡng, chữa bệnh, tắm khoáng nóng; du lịch ẩm thực; du lịch tâm linh; du lịch văn hóa (gồm quần thể tháp Chăm Pôsah Inư, lễ hội độc đáo: Lễ hội Nghinh ông, Đua thuyền, Mbăng Katê, Trung thu…). Đặc biệt, là quần thể tự nhiên độc đáo như: Đồi cát bay Mũi Né, Đồi cát Hòa Thắng, Đồi Hồng, Bàu Trắng, Suối Tiên…
Trên cơ sở khai thác tiềm năng và lợi thế của mình, giai đoạn 2010 - 2017 du lịch Bình Thuận đã có những bước phát triển đáng ghi nhận, tốc độ tăng trưởng bình quân về khách du lịch đạt 10,38%, cao hơn bình quân cả nước và vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Mặc dù, Bình Thuận được xem là địa phương đi đầu trong phát triển sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng biển và trở thành điểm sáng của du lịch Việt Nam từ những năm 2000 với thương hiệu “Thủ đô Resort”, nhưng theo đánh giá của các chuyên gia, hoạt động du lịch của Bình Thuận thời gian qua cơ bản còn dựa vào khai thác tiềm năng du lịch sẵn có, thiếu những nghiên cứu cơ bản để xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù; chưa khai thác có hiệu quả những tài nguyên du lịch đặc sắc, riêng có của địa phương để tạo ra sự khác biệt, nâng cao tính cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
Khảo sát cũng cho thấy, ngành Du lịch Bình Thuận hiện nay vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu, đầu tư đúng mức. Chưa có một nghiên cứu chính thức nào được công bố hoặc cơ quan, tổ chức cá nhân nào trả lời rằng sản phẩm du lịch đặc thù của Bình Thuận là sản phẩm gì? Việc tổ chức hoạt động du lịch của Tỉnh chỉ mới dừng lại ở khai thác phục vụ du lịch tự nhiên, du lịch “đại chúng”, do đó đã bắt đầu bộc lộ những yếu kém, gây tác động xấu đến cảnh quan môi trường…
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có nhiều, song tựu chung là do trong một thời gian dài Bình Thuận chưa xác định rõ những lợi thế so sánh để phát triển sản phẩm du lịch đặc thù, nâng cao năng lực cạnh tranh điểm đến, cụ thể như:
Thứ nhất, nhận thức của cấp ủy, chính quyền, nhất là các cơ quan quản lý nhà nước về ý nghĩa và tầm quan trọng của phát triển sản phẩm du lịch đặc thù chưa đầy đủ.
Thứ hai, sự liên kết trong phát triển du lịch tại tỉnh Bình Thuận còn chưa chặt chẽ.
Thứ ba, chưa có nghiên cứu cụ thể về phát triển sản phẩm du lịch đặc thù của địa phương để làm cơ sở đầu tư phát triển.
Thứ tư, nguồn lực phát triển sản phẩm du lịch đặc thù còn hạn chế, khó khăn.
Thứ năm, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch với các ngành liên quan, Hiệp hội du lịch Tỉnh chưa được phát huy đúng mức, thiếu sự hỗ trợ từ các cơ quan liên quan ở Trung ương.
Định hướng phát triển sản phẩm du lịch đặc thù ở Bình Thuận
Theo Đề án quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, UBND tỉnh Bình Thuận đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng lượng khách đến tăng từ 10-12%/năm đến năm 2020 và 8-10%/năm đến năm 2030 (trong đó khách quốc tế tăng từ 10-13%/năm) với tổng lượng khách đến năm 2030 đạt 17,5 triệu lượt, khách quốc tế đạt 2,2 triệu lượt; Doanh thu tăng từ 17 – 19%/năm, đến năm 2030 đạt trên 78.000 tỷ đồng và 3,78 tỷ USD. Trên cơ sở các định hướng phát triển, mục tiêu chiến lược phát triển du lịch Bình Thuận hướng đến thị trường du khách quốc tế, sản phẩm, hạ tầng, đầu tư, bảo tồn và phát triển tài nguyên, quảng bá tuyên truyền và phát triển nguồn nhân lực.
Định hướng phát triển sản phẩm du lịch đặc thù của Bình Thuận phải dựa trên những lợi thế so sánh về tài nguyên du lịch của Tỉnh so với những tỉnh khác, trước hết là các tỉnh trong vùng và những tỉnh có địa lý tương đồng như: Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu… Với cách tiếp cận này, Bình Thuận cần tập trung khai thác nhóm tài nguyên du lịch có khả năng phát triển thành sản phẩm du lịch đặc thù, bao gồm:
Thứ nhất, về tài nguyên du lịch tự nhiên. Bình Thuận có điều kiện khí hậu lý tưởng, với chiều dài 192 km bờ biển, có nhiều bãi biển đẹp, nước trong xanh, cát trắng mịn như: Mũi Né- Hòn Rơm, Tiến Thành, Long Sơn – Suối nước, Cam Bình, Đồi Dương, Tân Hải, Hòn Lan – Kê Gà – Thuận Quý… thu hút khách du lịch tới nghĩ dưỡng. Bên cạnh đó, hệ thống các đảo gần bờ cũng có thể giúp tỉnh Bình Thuận phát triển loại hình du lịch khám phá biển đảo như: Hòn Bà (La Gi), Hòn Ghềnh (Phan Thiết), Phú Quý…
Trong giai đoạn 2010-2017, du lịch Bình Thuận đã có những bước phát triển đáng ghi nhận với tốc độ tăng trưởng bình quân về khách du lịch đạt 10.38%, cao hơn bình quân cả nước và vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Năm 2017, Bình Thuận đón 5,11 triệu lượt khách, trong đó có hơn 2,3 triệu lượt khách quốc tế; thu nhập từ du lịch đạt trên 10.812 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2016.
Ngoài ra, Bình Thuận còn có lợi thế trong phát triển du lịch sinh thái với hệ sinh thái đa dạng như: Khu bảo tồn thiên nhiên Tà Kou vùng núi thấp ven biển có diện tích rừng đặc dụng 7.248 ha và 1.045 ha rừng sản xuất, đa dạng về động thực vật Núi Tà Cú - nơi có hệ sinh thái rừng tự nhiên đa dạng; Hồ Núi đất –La Gi cảnh quan đẹp, rất thanh bình; Thắng cảnh Hồ Hàm Thuận - Đa Mi có khí hậu mát độc đáo gần giống Đà Lạt; Suối Tiên (Phan Thiết) được ví như “Tiên cảnh giữa sa mạc” có sự kiến tạo tự nhiên độc đáo giữa nước và cát...
Thứ hai, về tài nguyên du lịch văn hóa, Bình Thuận là nơi có nhiều di tích lịch sử nổi tiếng như: Trường Dục Thanh – Nơi Bác Hồ dừng chân dạy học trước khi ra đi tìm đường cứu nước; Quần thể tháp Chăm PsahInư, Lầu Ông Hoàng, Dinh Thầy Thím, Vạn Thạch Long, Di tích nghệ thuật Thanh Minh Tự và Miếu Ngũ hành; Căn cứ Lê Hồng Phong… Cùng với đó là nhiều lễ hội đặc trưng của các dân tộc sinh sống tại Tỉnh như: Lễ hội Mpăng Katê, Lễ Hội nghinh ông, Lễ hội Dinh Thầy Thím, Lễ hội Trung thu…
Không chỉ vậy, tỉnh Bình Thuận còn có nhiều di sản văn hóa quý giá như: Văn hóa Cồng Chiêng của dân tộc K’ho, Răc Lay, khèn bầu, đàn Chapi, trống Pranưng… Nét đặc trưng trong du lịch văn hóa của Bình Thuận có thể kể đến đó là ẩm thực, với những làng nghề làm nên thương hiệu lớn như: nước mắm Phan Thiết. Đặc biệt, do đặc điểm là nơi giao nhau giữa các dòng đối lưu dưới đáy biển nên Bình Thuận có nhiều hải sản ngon: như Cua Huỳnh Đế, Mực một nắng, có Bóp, cá Liệt dầu… hấp dẫn du khách. Đây chính là điều kiện tốt để Bình Thuận phát triển sản phẩm du lịch khám phá biển đảo kết hợp với thưởng thức ẩm thực mang đặc trưng địa phương.
Nhằm khai thác tiềm năng sẵn có phát triển thành sản phẩm du lịch đặc thù, Bình Thuận cần quan tâm một số vấn đề sau:
- Cần có sự thống nhất cao trong nhận thức về sự cần thiết phát triển sản phẩm du lịch đặc thù, nâng cao tính cạnh tranh của điểm đến trong bối cảnh hội nhập.
- Xây dựng Đề án phát triển sản phẩm du lịch đặc thù điểm đến Bình Thuận phù hợp với định hướng Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương. Trong đó, cần chú ý xác lập tiêu chí khoa học cho lựa chọn sản phẩm du lịch đặt thù, làm cơ sở xác định sản phẩm du lịch đặt thù của Bình Thuận là sản phẩm gì?
- Làm tốt công tác nghiên cứu thị trường và xúc tiến quảng bá sản phẩm đặc thù điểm đến Bình Thuận; Đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch nhằm nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm du lịch điểm đến; Hợp tác trong hoạt động xúc tiến đầu tư, khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào địa phương bằng các chính sách rõ ràng và cụ thể.
- Khẩn trương hoàn thành các dự án hạ tầng hỗ trợ phát triển du lịch như: Khu đô thị du lịch biển Phan Thiết, đặc biệt là hệ thống giao thông, sân bay Phan Thiết, đường cao tốc Phan Thiết - Dầu Giây.