Nâng cao tiêu chí về công ty đại chúng và điều kiện chào bán chứng khoán
Chủ trương về sửa đổi Luật Chứng khoán dự kiến trình Quốc hội vào tháng 10/2018, Bộ Tài chính (Ủy ban Chứng khoán Nhà nước) đang gấp rút hoàn thiện dự thảo và các thành viên thị trường cũng đang tích cực góp ý cho dự kiến nội dung sửa đổi Luật Chứng khoán. Những vấn đề liên quan tới công ty đại chúng, chào bán chứng khoán ra công chúng, công bố thông tin minh bạch, các chính sách về thu hút nhà đầu tư nước ngoài… là những nội dung dành được nhiều quan tâm cùng những đề xuất, gợi ý đưa vào dự kiến nội dung dự thảo Luật Chứng khoán (sửa đổi).
Nâng cao tiêu chí về công ty đại chúng
Thứ nhất, liên quan đến công ty đại chúng, trong dự thảo nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung Luật Chứng khoán (sửa đổi), có 8 điểm dự kiến sửa đổi so với Luật Chứng khoán hiện hành. Tuy nhiên, trong đó vấn đề mấu chốt vẫn là xoay quanh việc nâng cao tiêu chí về công ty đại chúng. Quy định hiện hành của Luật Chứng khoán về tiêu chí công ty đại chúng (có quy mô vốn điều lệ là 10 tỷ đồng và 100 nhà đầu tư trở lên) đến thời điểm này là tương đối thấp so với quy mô của các công ty đại chúng hiện tại.
Thực tiễn quản lý cho thấy nhiều công ty đại chúng có quy mô vốn nhỏ, còn ít kinh nghiệm trong công tác quản trị công ty (QTCT), thiếu hiểu biết về các quy định trên TTCK, chưa đủ năng lực để đáp ứng các yêu cầu cao về QTCT, công bố thông tin (công bố thông tin), kiểm toán và các nghĩa vụ khác của công ty đại chúng theo quy định.
Thực trạng trên cho thấy cần có những sửa đổi, bổ sung để có khái niệm thống nhất và rõ ràng hơn về đối tượng quản lý của Luật Chứng khoán là công ty đại chúng, đồng thời tương thích với việc hủy tư cách công ty đại chúng khi không còn đáp ứng đủ điều kiện, không bị ràng buộc bởi điều kiện về niêm yết hay điều kiện về chào bán ra công chúng. Bên cạnh đó, cần nâng cao điều kiện về vốn điều lệ đã góp của công ty đại chúng lên 50 tỷ đồng trở lên.
Tại Hội thảo góp ý sửa đổi, bổ sung Luật Chứng khoán do UBCKNN tổ chức gần đây, liên quan đến các vấn đề về công ty đại chúng, ông Lê Công Điền, Vụ trưởng Vụ Giám sát các công ty đại chúng, UBCKNN cho biết, thực tế ban soạn thảo có đưa ra hai mức vốn điều lệ đối với công ty đại chúng là 30 tỷ đồng và 50 tỷ đồng, nhưng trong dự thảo đang để mức 50 tỷ đồng.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến thành viên thị trường vẫn e ngại liệu mức vốn 50 tỷ đồng có quá chênh lệch so với mức 10 tỷ đồng trong Luật hiện hành hay không. Với mức vốn 30 tỷ đồng thì có một ưu điểm là diện chịu tác động khi mà công ty không đủ 30 tỷ đồng và rút khỏi danh sách các công ty đại chúng chỉ khoảng 20%, hơn nữa phù hợp với mức vốn góp của tổ chức phát hành tại thời điểm đăng ký chào bán từ 30 tỷ đồng trở lên.
Thứ hai, liên quan đến khái niệm về công ty đại chúng, Khoản 1 Điều 25 Luật Chứng khoán hiện hành quy định công ty đại chúng là công ty cổ phần thuộc một trong ba loại hình sau: (a) Công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng; (b) Công ty có cổ phiếu được niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK); (c) Công ty có cổ phiếu được ít nhất 100 nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên.
Tuy nhiên, cũng theo quy định tại Khoản 2 điều này, chỉ đối với công ty thuộc trường hợp thứ ba mới phải đăng ký công ty đại chúng với UBCKNN. Quy định trên dẫn đến bất cập trong việc hủy công ty đại chúng của doanh nghiệp (thực tế là không thể hủy được với trường hợp quy định tại hai trường hợp đầu - điểm (a) và (b)). Do vậy, điều kiện hủy đăng ký công ty đại chúng mới chỉ quy định cho loại hình công ty tại điểm c khoản 1 Điều 25 Luật Chứng khoán hiện hành.
Tại dự kiến nội dung sửa đổi Luật Chứng khoán, ban soạn thảo đưa ra khái niệm về công ty đại chúng là công ty cổ phần thuộc một trong hai loại hình: công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng và công ty có cổ phiếu được ít nhất 100 nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ 50 tỷ đồng trở lên.
Thứ ba, về hồ sơ công ty đại chúng, Điều 26 của Luật Chứng khoán hiện hành chỉ nêu 4 loại giấy tờ trong hồ sơ công ty đại chúng là bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của công ty, điều lệ công ty, báo cáo tài chính (BCTC) năm gần nhất và bản thông tin tóm tắt về tổ chức kinh doanh, bộ máy quản lý và cơ cấu cổ đông.
Do đó, trong Dự thảo Luật Chứng khoán sửa đổi sẽ đưa ra yêu cầu chặt chẽ hơn, trong đó BCTC là báo cáo kỳ kế toán gần nhất được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận…; Giấy đăng ký công ty đại chúng, còn Bản thông tin tóm tắt về tổ chức kinh doanh sẽ được thay bằng bản công bố thông tin theo mẫu và có danh sách cổ đông.
Thứ tư, dự kiến Dự thảo Luật Chứng khoán sửa đổi sẽ bổ sung quy định trong thời gian xem xét hồ sơ, UBCKNN có quyền yêu cầu công ty đại chúng sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký công ty đại chúng để đảm bảo thông tin được chính xác, trung thực, đầy đủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Điều này trong Luật hiện hành chưa được quy định cụ thể.
Thứ năm, về quyền và nghĩa vụ của công ty đại chúng, Luật Chứng khoán sửa đổi dự kiến sẽ bổ sung nghĩa vụ thực hiện đăng ký niêm yết trên thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày UBCKNN xác nhận đăng ký công ty đại chúng.
Thứ sáu, việc hủy tư cách công ty đại chúng sẽ được sửa đổi để khắc phục bất cập của Luật Chứng khoán hiện hành khi chưa có cơ chế hủy tư cách công ty đại chúng trong trường hợp đã chào bán cổ phiếu ra công chúng nhưng số cổ đông giảm dưới 100 cổ đông hoặc vốn điều lệ đã góp không đủ. Trong thời gian chờ UBCKNN thông báo hủy đăng ký công ty đại chúng thì công ty vẫn phải thực hiện đầy đủ các quy định liên quan đến công ty đại chúng.
Thứ bảy, quy định liên quan đến chào mua công khai là một bước tiến quan trọng để bảo vệ quyền lợi của cổ đông nói chung và cổ đông nhỏ lẻ nói riêng của công ty đại chúng.
Việc sửa đổi quy định về các trường hợp phải chào mua công khai để bảo đảm sự chặt chẽ, rõ ràng nhằm ngăn ngừa việc thâu tóm không công bằng... đồng thời cũng mở rộng một số trường hợp không phải thực hiện chào mua công khai như: (i) Nhận chuyển nhượng cổ phiếu có quyền biểu quyết/ chứng chỉ quỹ dẫn đến việc sở hữu như đã nêu tại điểm a, b khoản 1 Điều 32 Luật Chứng khoán hiện hành đã được đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) công ty đại chúng, Ban đại diện quỹ đóng thông qua.
Trong các trường hợp này, ĐHĐCĐ phải xác định rõ đối tượng chuyển nhượng, nhận chuyển nhượng; (ii) ĐHĐCĐ/ Ban đại diện quỹ thông qua việc chuyển nhượng cổ phiếu/ chứng chỉ quỹ nhiều lần, mỗi lẫn chuyển nhượng không được cách nhau quá ba (03) tháng; (iii) Tổ chức, cá nhân tham gia các đợt đấu giá chứng khoán chào bán ra công chúng; (iv) Tổ chức, cá nhân sở hữu cổ phiếu từ hoạt động chia, tách, sáp nhập và hợp nhất doanh nghiệp… nhằm đảm bảo công bằng cho các cổ đông.
Thứ tám, nếu như trong Luật Chứng khoán hiện hành chỉ có quy định về việc đăng ký mua lại cổ phiếu của chính mình thì trong dự thảo Luật Chứng khoán (sửa đổi) lần này dự kiến sẽ có cả quy định về việc bán cổ phiếu quỹ. công ty đại chúng sẽ gửi tài liệu báo cáo mua lại cổ phiếu và báo cáo bán cổ phiếu quỹ cho UBCKNN, công bố công khai thông tin.
Sửa đổi, bổ sung các quy định về chào bán chứng khoán
Việc chào bán chứng khoán ra công chúng hiện nay đang được thực hiện theo Điều 12 của Luật Chứng khoán hiện hành, tuy nhiên một số điều kiện được đánh giá là vẫn còn định tính, chưa rõ ràng, thiếu ràng buộc các công ty đại chúng phải đưa chứng khoán vào giao dịch trên thị trường có tổ chức.
Điều này làm hạn chế thanh khoản của chứng khoán, đồng thời ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông. Nội dung sửa đổi Luật Chứng khoán lần này dự kiến quy định tách bạch điều kiện chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng và điều kiện chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng.
Về điều kiện chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng
Dự thảo Luật Chứng khoán sửa đổi dự kiến sẽ nâng mức vốn điều lệ đã góp của tổ chức phát hành tại thời điểm đăng ký chào bán từ mức 10 tỷ đồng Việt Nam theo Luật hiện hành lên mức 30 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán.
Hoạt động kinh doanh của hai (02) năm liên tục liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi trong khi quy định tại Luật hiện hành là 1 năm liền trước.
Dự thảo cũng sẽ loại bỏ điều kiện không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán vì về cơ bản, chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế đã thể hiện được đúng tình hình kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp. Ngoài ra, dự kiến Dự thảo Luật Chứng khoán (sửa đổi) còn bổ sung một số chỉ tiêu định lượng như:
- Tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải được bán cho trên 100 nhà đầu tư ngoài tổ chức phát hành; trường hợp vốn cổ phần của tổ chức phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ tối thiểu này là 15% vốn cổ phần của tổ chức phát hành;
- Cổ đông sáng lập phải tuân thủ quy định về hạn chế chuyển nhượng cổ phần sở hữu theo quy định tại Luật Doanh nghiệp. Thành viên hội đồng quản trị (HĐQT) (hoặc thành viên góp vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn) và Giám đốc (Tổng giám đốc) phải cam kết cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành và phải nắm giữ mức này tối thiểu một (01) năm kể từ ngày kết thúc việc chào bán;
- Có hợp đồng tư vấn hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng với công ty chứng khoán, ngoại trừ trường hợp tổ chức phát hành là công ty chứng khoán hoặc trường hợp đợt chào bán có cam kết bảo lãnh phát hành.
- Đối với các tổ chức phát hành là doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công nghệ cao và các lĩnh vực, ngành nghề nhà nước khuyến khích phát triển, khi chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng sẽ không áp dụng quy định về vốn điều lệ và kết quả hoạt động kinh doanh được quy định tại điều này.
Điều kiện chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng cũng được bổ sung, bao gồm:
(a) Mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ năm mươi (50) tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ sách kế toán;
(b) Hoạt động kinh doanh của 02 năm liên tục liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi;
(c) Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán được ĐHĐCĐ thông qua;
(d) Giá trị cổ phiếu phát hành thêm theo mệnh giá không lớn hơn tổng giá trị cổ phiếu đang lưu hành;
(đ) Lần chào bán thêm phải cách tối thiểu 01 năm sau lần chào bán trước;
(e) Trường hợp đợt chào bán là nhằm mục đích thực hiện dự án, nếu cổ phiếu được bán cho các nhà đầu tư không đạt tối thiểu 70% số cổ phiếu dự kiến chào bán ra công chúng, đợt chào bán được coi là không thành công. Tổ chức phát hành phải hoàn trả số tiền thu được cho các nhà đầu tư đã đặt mua cổ phiếu này. Tổ chức phát hành phải có cam kết cấp hạn mức tín dụng của ngân hàng để tài trợ bổ sung vốn đầu tư thực hiện dự án trường hợp công ty không bán thành công 100% số lượng cổ phiếu;
(g) Trường hợp có bảo lãnh phát hành thì tổ chức bảo lãnh phát hành phải đáp ứng điều kiện theo quy định;
(h) Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc/Giám đốc của tổ chức phát hành không bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm về trật tự quản lý kinh tế; không phải là Chủ tịch, Tổng giám đốc/Giám đốc của công ty bị hủy niêm yết bắt buộc;
(i) Không bị xử lý vi phạm quy định về sử dụng vốn sai mục đích đối với các đợt phát hành, không vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin theo pháp luật chứng khoán trong thời gian 2 năm gần nhất.
(k) Không áp dụng các quy định tại điểm b, d, e đối với trường hợp chào bán cổ phiếu ra công chúng của tổ chức phát hành là doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công nghệ cao và các lĩnh vực ngành nghề nhà nước khuyến khích phát triển.
Nội dung liên quan đến điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ sẽ được sửa đổi, bổ sung theo hướng chặt chẽ hơn. Theo đó, điều kiện chuyển nhượng cổ phần, trái phiếu chuyển đổi chào bán riêng lẻ được quy định bị hạn chế tối thiểu 03 năm thay cho quy định 01 năm như quy định tại Luật Chứng khoán hiện hành; Bổ sung đối tượng tham gia đợt chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty đại chúng là một trong các đối tượng sau: nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, nhà đầu tư chiến lược trong lĩnh vực kinh doanh của tổ chức phát hành.
Bên cạnh đó, dự kiến Dự thảo Luật Chứng khoán (sửa đổi) cũng sẽ bổ sung, luật hóa quy định về phát hành cổ phiếu để vốn hóa các khoản nợ của công ty đại chúng theo hướng đây là chào bán riêng lẻ với điều kiện hạn chế chuyển nhượng cổ phiếu tương tự như quy định đối với chào bán chứng khoán riêng lẻ, trừ một số trường hợp khác theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đây cũng là nội dung được nhiều thành viên thị trường quan tâm và góp ý tại buổi Hội thảo đóng góp ý kiến sửa đổi, bổ sung dự kiến nội dung Dự thảo Luật Chứng khoán (sửa đổi).
Vấn đề công bố thông tin trên thị trường chứng khoán
Luật Chứng khoán đã có một Chương riêng (Chương VIII) quy định về nghĩa vụ công bố thông tin của các bên tham gia thị trường. Tuy nhiên, sự phát triển không ngừng của TTCK và yêu cầu của nhà đầu tư đòi hỏi việc minh bạch hóa thông tin phải ngày càng được nâng cao.
Các quy định về công bố thông tin tại Luật Chứng khoán hiện hành vì thế chưa đáp ứng được yêu cầu và theo kịp sự phát triển của thị trường, cũng chưa bao quát hết nghĩa vụ công bố thông tin của nhiều loại hình quỹ đầu tư chứng khoán mới... Mặt khác, nhiều sự kiện cần công bố thông tin hiện nay mới chỉ được quy định tại Thông tư hướng dẫn.
Trong dự kiến nội dung sửa đổi Luật Chứng khoán lần này, để đảm bảo tính linh hoạt, ban soạn thảo sẽ sửa đổi theo hướng không đưa chi tiết các quy định mà đối tượng có trách nhiệm công bố thông tin phải thực hiện, thay vào đó chỉ bổ sung quy định mang tính nguyên tắc mà các đối tượng công bố thông tin phải thực hiện.
Theo đó, bổ sung một số nguyên tắc công bố thông tin của IOSCO như: Nguyên tắc 16 “Cần công bố đầy đủ, chính xác và kịp thời các kết quả tài chính, rủi ro và các thông tin quan trọng khác đối với quyết định của nhà đầu tư” và Nguyên tắc 17 “Người sở hữu chứng khoán trong một công ty phải được đối xử một cách vô tư và công bằng như nhau”. Còn những nghĩa vụ cụ thể, ban soạn thảo đề xuất quy định ở văn bản dưới Luật như Nghị định và Thông tư.
Ngoài ra, để đảm bảo chất lượng minh bạch thông tin, nhằm đáp ứng tiêu chí nâng hạng TTCK, ban soạn thảo cũng có bổ sung quy định công bố thông tin bằng Tiếng Anh và công bố thông tin báo cáo tài chính theo chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế (IFRS). Tuy nhiên, điều này sẽ chỉ áp dụng đối với công ty niêm yết có quy mô lớn và được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Bên cạnh đó, liên quan đến vấn đề minh bạch, Luật Chứng khoán hiện hành chưa quy định về công bố thông tin đối với một số đối tượng có lợi thế về thông tin, điều này có thể tạo ra sự không bình đẳng trong đầu tư chứng khoán. Hiện nay, có hai khái niệm quan trọng là “người nội bộ” và “người có liên quan”, đây là hai đối tượng có nghĩa vụ công bố thông tin rất nhiều. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng thì cũng còn nhiều vướng mắc. Theo bà Tạ Thanh Bình, Vụ trưởng Vụ Phát triển Thị trường Chứng khoán, UBCKNN, ban soạn thảo đang sửa hai khái niệm này theo hướng phù hợp với Luật Doanh nghiệp.
Trong Luật Doanh nghiệp, các đối tượng nằm trong mối quan hệ gia đình là con dâu, anh rể, em rể, em dâu, chị dâu… thì đều được coi là người có liên quan. Ngoài ra, các chủ thể công bố thông tin như đối tác kinh doanh của công ty đại chúng hay khách hàng lớn của công ty đại chúng cũng đang được ban soạn thảo dự kiến đưa vào diện là “người có liên quan”. Tuy nhiên, quy định này liệu có quá rộng hay có quá khó khăn trong việc áp dụng hay không là vấn đề mà ban soạn thảo đang muốn lắng nghe ý kiến từ thành viên thị trường.
Chính sách về sở hữu nước ngoài của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán
Hiện tại, Luật Chứng khoán không nêu khái niệm về nhà đầu tư nước ngoài, mà khái niệm này được quy định tại Nghị định 60. Ngoài ra, theo Luật Đầu tư, còn có khái niệm tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, cụ thể là các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư trên 51% phải thực hiện điều kiện, thủ tục đầu tư kinh doanh như nhà đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó, định nghĩa về tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại Nghị định 60 chưa nêu rõ tỷ lệ sở hữu nước ngoài được tính trên tổng số vốn điều lệ hay tổng số vốn có quyền biểu quyết của doanh nghiệp. Do vậy trong dự kiến nội dung dự thảo Luật Chứng khoán (sửa đổi) lần này, những quy định hiện hành sẽ được sửa đổi theo hướng bổ sung khái niệm “Nhà đầu tư nước ngoài” và “Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài”.
Theo đó, tỷ lệ sở hữu nước ngoài sẽ là tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư bao gồm tổ chức nước ngoài và cá nhân nước ngoài, bỏ đối tượng là tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên.
Việc xác định nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên trong một tổ chức kinh tế (nhất là khi tổ chức này không phải là công ty đại chúng niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên SGDCK) để bắt đầu tính toán sở hữu nước ngoài trong một công ty đại chúng cũng còn bất cập khi áp dụng trên TTCK Việt Nam. Theo Luật Đầu tư năm 2014 và các quy định pháp luật khác có liên quan, khi trở thành tổ chức có trên 51% vốn nước ngoài, doanh nghiệp sẽ bị áp dụng một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, phải đáp ứng điều kiện và thực hiện thủ tục đầu tư theo quy định đối với nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh (Business Cooperation Contract - BCC);
Thứ hai, chịu các ràng buộc nhất định trong hoạt động kinh doanh theo hướng chặt chẽ hơn so với các doanh nghiệp trong nước;
Thứ ba, không được phép thực hiện một số ngành, nghề kinh doanh đối với nhà đầu tư nước ngoài theo yêu cầu của các điều ước quốc tế và quy định của pháp luật Việt Nam. Hiện tại, có rất ít Luật chuyên ngành quy định cụ thể về tỷ lệ sở hữu nước ngoài. Đối với những ngành nghề thuộc danh mục điều kiện đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài thì công ty thuộc những ngành nghề này sẽ bị hạn chế sở hữu nước ngoài ở mức 49% theo quy định tại Nghị định 60.
Hiện nay, các công ty đại chúng phần lớn đều hoạt động trong nhiều ngành nghề khác nhau, trong đó có những ngành nghề thuộc 243 ngành nghề kinh doanh có điều kiện mà hệ thống pháp luật chuyên ngành chưa có quy định cụ thể về tỷ lệ sở hữu nước ngoài (Nghị định 60 chưa quy định trường hợp này).
Thực tế, chỉ cần một ngành, nghề không có quy định rõ về tỷ lệ sở hữu nước ngoài là không xác định được “room” nước ngoài tối đa. Do vậy, trong dự kiến dự thảo nội dung sửa đổi Luật Chứng khoán sẽ bổ sung quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài của công ty đại chúng: “Các ngành, nghề mà pháp luật chuyên ngành chưa quy định hoặc không quy định về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thì không hạn chế tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài” nhằm giải quyết các vướng mắc hiện nay khi tra cứu tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại công ty đại chúng.