Những "điểm nghẽn" cần giải quyết để xử lý nợ xấu
(Tài chính) Nợ xấu được ví như căn bệnh ung thư quái ác. Nếu phát hiện chữa trị sớm thì cơ hội xử lý cao, còn càng để muộn thì càng khó cứu chữa. Nhưng hiện các ngân hàng Việt Nam đang ở trong tình trạng tự chẩn đoán, tiên lượng bệnh chưa chuẩn và vẫn luôn hy vọng tự mình có thể giải quyết được với kỳ vọng khi thị trường nhanh chóng hồi phục… mọi chuyện sẽ qua đi.
Do đó các ngân hàng vẫn chưa quyết liệt trong xử lý nợ xấu. Điều này thể hiện ở chỗ vẫn còn rất ít ngân hàng chấp nhận bán khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm với giá thấp. Một lý do nữa khiến họ e ngại bán nợ xấu là cơ chế trách nhiệm về mặt pháp lý. Có thể nói cơ chế pháp lý, đặc biệt là tình trạng hình sự hóa, quy trách nhiệm cho cán bộ ngân hàng nặng nề gây thất thoát đang ám ảnh các lãnh đạo và người có trách nhiệm ở các ngân hàng. Nếu không giải quyết cơ chế này thì xử lý nợ xấu sẽ vẫn còn bế tắc.
Kết quả kinh doanh mà các ngân hàng vừa công bố mới đây cho thấy tình trạng nợ xấu rất đáng lo ngại, dù VAMC đã đi vào hoạt động được gần 2 tháng. Đáng báo động là các khoản nợ có khả năng mất vốn (nằm trong nhóm 5) lại tăng, chiếm tới khoảng 48% tổng dư nợ, tức là chỉ tính riêng với nhóm các ngân hàng niêm yết đã lên tới hơn 14 nghìn tỷ đồng. Đây không phải là điều bất ngờ khi kinh tế vĩ mô còn trì trệ. Nhiều doanh nghiệp (DN) vẫn gặp khó khăn, không bán được hàng nên khó trả nợ vay đúng hạn.
Bên cạnh đó, một số ngân hàng vẫn chưa kiểm soát tốt các khoản cho vay khi chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng. Điều này cũng khiến bức tranh nợ xấu của hệ thống ngân hàng vẫn còn xám. Trước tình hình đó, Ngày 23/8/2013, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình đã ký Quyết định số 1085/QĐ-NHNN, ban hành kế hoạch hành động của ngành ngân hàng về xử lý nợ xấu. Hiện Quyết định 1085 hay kế hoạch hành động, các quy định và giao việc chi tiết chưa được công bố cụ thể.
Kết quả kinh doanh mà các ngân hàng vừa công bố mới đây cho thấy tình trạng nợ xấu rất đáng lo ngại, dù VAMC đã đi vào hoạt động được gần 2 tháng. Đáng báo động là các khoản nợ có khả năng mất vốn (nằm trong nhóm 5) lại tăng, chiếm tới khoảng 48% tổng dư nợ, tức là chỉ tính riêng với nhóm các ngân hàng niêm yết đã lên tới hơn 14 nghìn tỷ đồng. Đây không phải là điều bất ngờ khi kinh tế vĩ mô còn trì trệ. Nhiều doanh nghiệp (DN) vẫn gặp khó khăn, không bán được hàng nên khó trả nợ vay đúng hạn.
Bên cạnh đó, một số ngân hàng vẫn chưa kiểm soát tốt các khoản cho vay khi chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng. Điều này cũng khiến bức tranh nợ xấu của hệ thống ngân hàng vẫn còn xám. Trước tình hình đó, Ngày 23/8/2013, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình đã ký Quyết định số 1085/QĐ-NHNN, ban hành kế hoạch hành động của ngành ngân hàng về xử lý nợ xấu. Hiện Quyết định 1085 hay kế hoạch hành động, các quy định và giao việc chi tiết chưa được công bố cụ thể.
Về vai trò của VAMC trong xử lý nợ xấu không dễ dự báo bao giờ xử lý xong, nhưng ngay cả ở điều kiện tốt nhất cũng phải mất vài năm. Tốc độ xử lý nợ xấu của VAMC phụ thuộc vào mấy yếu tố: sự ổn định kinh tế vĩ mô, chu kỳ phục hồi thị trường bất động sản ngắn hay dài và cùng đó là sự nỗ lực vượt qua những điểm nghẽn để giúp cho VAMC cùng các ngân hàng xử lý nợ xấu hiệu quả.
Giải quyết triệt để, để tăng hiệu quả thu hồi vốn từ các khoản nợ xấu hiện nay không chỉ chờ vào mệnh lệnh của cơ quan chức năng, hay vai trò của VAMC hoặc sự nỗ lực của chính các ngân hàng thương mại. Vấn đề quan trọng là phải vượt qua những điểm nghẽn này, đó là :
Thứ nhất, điểm nghẽn đầu tiên nằm chính ở khái niệm trái phiếu đặc biệt mà VAMC trả cho các ngân hàng thương mại khi mua nợ xấu. Tỉ lệ chiết khấu chưa rõ ràng, trong khi một số quy chế để bán nợ cho VAMC lại khá ngặt nghèo, như tổ chức tín dụng có nợ xấu 3% tổng dư nợ và khoản nợ phải được bảo đảm bằng 60% giá trị tài sản bất động sản... khiến ngay các ngân hàng (chưa nói tới các tổ chức khác) ngần ngại khi bán nợ cho VAMC. Thêm vào đó, không phải ngân hàng thương mại cứ bán nợ cho VAMC là khoản nợ đó được xóa hoàn toàn. Sau 5 năm nếu không xử lý được hết nợ xấu thì ngân hàng thương mại phải lấy lại món nợ đó và ôm số nợ này. Như thế, rủi ro chính vẫn là các ngân hàng thương mại vì họ bán nợ đi, không biết được chiết khấu và hưởng được bao nhiêu trong khi vẫn phải trích lập dự phòng rủi ro 20% cho các khoản nợ để giảm trừ giá trị trái phiếu.
Rõ ràng với những quy định quá chặt có phần lợi cho VAMC như hiện nay thì phần rủi ro bán nợ vẫn thuộc về phía ngân hàng thương mại. VAMC phải nới những điều khoản này, nhất là quy định món nợ phải được đảm bảo bằng 60% giá trị tài sản bất động sản thì ngân hàng thương mại mới mạnh dạn bán nợ cho VAMC. Nếu VAMC cởi bỏ nút thắt này, theo tôi không chỉ nhà đầu tư trong nước mà ngay cả các tổ chức nước ngoài tham gia vào quá trình mua bán nợ cùng VAMC.
Thứ hai, các con số nợ xấu hiện nay chưa phản ánh đúng sự thật. Xử lý nợ xấu, cần nhìn thẳng vào sự thật, hiện VAMC xử lý nợ xấu trên nguồn số liệu nhảy múa, nợ xấu của hệ thống ngân hàng vẫn chưa được công bố chính xác, đầy đủ. Nếu áp dụng các quy định theo Thông tư 02/2013 của NHNN về phân loại và trích lập dự phòng rủi ro thì nợ xấu sẽ cao hơn hiện nay (Thông tư này đã được dời đến tháng 6/2014 mới áp dụng). Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang dựa trên hai nguồn số liệu khác nhau để giám sát tình hình nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD), bao gồm số liệu nợ xấu do các TCTD báo cáo và số liệu nợ xấu theo kết quả giám sát của cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Điều này đồng nghĩa VAMC xử lý nợ xấu trên nguồn số liệu không đồng nhất.
Theo VAMC, thông thường, số liệu nợ xấu theo kết quả giám sát của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng cao hơn và đáng tin cậy hơn so với số liệu nợ xấu do các TCTD báo cáo. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có nhiều nguồn thông tin khác nhau để đánh giá chất lượng nợ xấu của TCTD (thông tin chung về toàn hệ thống, thông tin về khách hàng vay, thông tin từ hoạt động thanh tra tại chỗ…). Con số cập nhật chính thức của NHNN ở thời điểm gần nhất, cụ thể nếu như nợ xấu tại thời điểm cuối tháng 4.2013 chiếm tỷ lệ 4,67% trong tổng dư nợ thì đến cuối tháng 5.2013 giảm còn 4,65% và đến cuối tháng 6 giảm nhanh về chỉ còn 4,46%. Tuy nhiên đây là con số được cập nhật và công bố dựa trên tổng hợp báo cáo của các tổ chức tín dụng. Còn một con số khác, cao hơn nhiều (tùy thời điểm công bố) là qua giám sát từ xa của Cơ quan Thanh tra giám sát - Ngân hàng Nhà nước.
Khi phân tích về tình hình nợ xấu, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng cả hệ thống NHTM đang có lượng nợ xấu khổng lồ. Bởi vì có những khoản nợ xấu không trốn đi, nó nằm đó, chỉ có điều người ta không chịu gọi đúng tên mà thôi. Một phần đáng ra là nợ xấu nhưng vẫn được nằm ở nhóm chưa xấu; một phần về bản chất là nợ và xấu, nhưng đã được làm mới lại trước thời điểm chốt sổ báo cáo. Cũng có những khoản nợ khó thu hồi, song trước ngày chốt số lập báo cáo tài chính, ngân hàng đã kịp “đổi đời” cho nó. Đây chủ yếu là khoản tiền gửi – cho vay giữa các ngân hàng với nhau, khó khăn và chất lượng của nó cũng không có ở những tỷ lệ nợ xấu được báo cáo “đẹp”, dù không lẩn khuất. Việc xử lý nợ xấu trở nên hết sức khó khăn bởi ngay cả số liệu về nợ xấu cho đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn.
Đã có nhiều con số rất khác nhau về tình trạng nợ xấu được công bố trong thời gian qua. Điều quan trọng hơn hết là các ngân hàng cần thẳng thắn nhìn nhận những khoản nợ để con số nợ xấu là thật, chứ không chỉ để làm đẹp báo cáo. Chỉ điều đó mới giúp cơ quan chức năng đưa ra những cơ chế điều chỉnh phù hợp. Do vậy, cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng cần bắt buộc các NHTM đưa ra số liệu cần nói rõ nguồn, phương pháp xác định và thời điểm xác định, từ đó mới xác định số nợ xấu chính xác.
Theo VAMC, thông thường, số liệu nợ xấu theo kết quả giám sát của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng cao hơn và đáng tin cậy hơn so với số liệu nợ xấu do các TCTD báo cáo. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có nhiều nguồn thông tin khác nhau để đánh giá chất lượng nợ xấu của TCTD (thông tin chung về toàn hệ thống, thông tin về khách hàng vay, thông tin từ hoạt động thanh tra tại chỗ…). Con số cập nhật chính thức của NHNN ở thời điểm gần nhất, cụ thể nếu như nợ xấu tại thời điểm cuối tháng 4.2013 chiếm tỷ lệ 4,67% trong tổng dư nợ thì đến cuối tháng 5.2013 giảm còn 4,65% và đến cuối tháng 6 giảm nhanh về chỉ còn 4,46%. Tuy nhiên đây là con số được cập nhật và công bố dựa trên tổng hợp báo cáo của các tổ chức tín dụng. Còn một con số khác, cao hơn nhiều (tùy thời điểm công bố) là qua giám sát từ xa của Cơ quan Thanh tra giám sát - Ngân hàng Nhà nước.
Khi phân tích về tình hình nợ xấu, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng cả hệ thống NHTM đang có lượng nợ xấu khổng lồ. Bởi vì có những khoản nợ xấu không trốn đi, nó nằm đó, chỉ có điều người ta không chịu gọi đúng tên mà thôi. Một phần đáng ra là nợ xấu nhưng vẫn được nằm ở nhóm chưa xấu; một phần về bản chất là nợ và xấu, nhưng đã được làm mới lại trước thời điểm chốt sổ báo cáo. Cũng có những khoản nợ khó thu hồi, song trước ngày chốt số lập báo cáo tài chính, ngân hàng đã kịp “đổi đời” cho nó. Đây chủ yếu là khoản tiền gửi – cho vay giữa các ngân hàng với nhau, khó khăn và chất lượng của nó cũng không có ở những tỷ lệ nợ xấu được báo cáo “đẹp”, dù không lẩn khuất. Việc xử lý nợ xấu trở nên hết sức khó khăn bởi ngay cả số liệu về nợ xấu cho đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn.
Đã có nhiều con số rất khác nhau về tình trạng nợ xấu được công bố trong thời gian qua. Điều quan trọng hơn hết là các ngân hàng cần thẳng thắn nhìn nhận những khoản nợ để con số nợ xấu là thật, chứ không chỉ để làm đẹp báo cáo. Chỉ điều đó mới giúp cơ quan chức năng đưa ra những cơ chế điều chỉnh phù hợp. Do vậy, cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng cần bắt buộc các NHTM đưa ra số liệu cần nói rõ nguồn, phương pháp xác định và thời điểm xác định, từ đó mới xác định số nợ xấu chính xác.
Thứ ba, một trong những điểm nghẽn là chúng ta chưa thực sự có cơ chế thị trường để đấu giá các khoản nợ. Phải tạo ra được cơ chế thị trường để các khoản nợ có thể đem ra đấu giá và giải quyết. Cơ chế thị trường là điều tối quan trọng để giải quyết vấn đề nợ xấu. Có VAMC là điều tốt, nhưng cần xây dựng cơ chế thị trường để xử lý các khoản nợ nhanh chóng hiệu quả. Nếu các khoản nợ chỉ chuyển từ tay người này sang tay người khác thì sẽ không thể giải quyết được vấn đề. Thậm chí đây còn là nguy cơ dẫn tới một cuộc khủng hoảng khác nữa.
Thứ tư, việc giải quyết nợ xấu hiện đang gặp một điểm nghẽn nữa đó là việc thi hành án chậm. Việc thi hành án chậm do: Các khoản vay liên quan đến nhiều tổ chức tín dụng; Tài sản chưa được xác minh; Tài sản đang bị tranh chấp, đang phát mãi; Tài sản đảm bảo ở các TCTD khác chưa được xử lý; Khách hàng tẩu tán tài sản thế chấp nên thi hành án chưa kê biên được, khách hàng thuộc hộ nghèo, đau ốm, khách hàng bỏ trốn, đi khỏi nơi cư trú... ; Liên quan đến đơn vị thi hành án, ngân hàng đã có văn bản yêu cầu giải quyết hồ sơ, nhưng đơn vị thi hành án vẫn chưa tiến hành. Do thời gian kéo dài làm cho tài sản bị giảm giá trị, lãi phát sinh tăng dẫn đến tài sản phát mãi có khả năng không thu hồi đủ nợ. Bên cạnh đó có một số hồ sơ chưa xác minh được điều kiện thi hành án …
Chính vì việc thi hành án chậm trễ nên phía ngân hàng cũng bị động khi xử lý nợ xấu. Nếu đẩy nhanh việc xử lý thì tỉ lệ nợ có khả năng mất vốn tại các chi nhánh TCTD sẽ giảm xuống. Để xử lý nợ xấu thông qua công tác thi hành án hiệu quả, ngân hàng cần tăng cường phối hợp với các bên liên quan. Đồng thời, đề nghị các TCTD gửi những yêu cầu về việc xử lý nợ xấu liên quan đến thi hành án bằng văn bản về NHNN chi nhánh TP. Từ đó, có cơ sở làm việc với cơ quan chức năng, từng bước phối hợp giải quyết rốt ráo vấn đề nợ xấu liên quan đến thi hành án . Về lâu dài, cần xây dựng quy chế phối hợp giữa ngân hàng và cơ quan thi hành án. Có như vậy mới thực hiện tốt việc xử lý nợ xấu liên quan đến công tác thi hành án.
Chính vì việc thi hành án chậm trễ nên phía ngân hàng cũng bị động khi xử lý nợ xấu. Nếu đẩy nhanh việc xử lý thì tỉ lệ nợ có khả năng mất vốn tại các chi nhánh TCTD sẽ giảm xuống. Để xử lý nợ xấu thông qua công tác thi hành án hiệu quả, ngân hàng cần tăng cường phối hợp với các bên liên quan. Đồng thời, đề nghị các TCTD gửi những yêu cầu về việc xử lý nợ xấu liên quan đến thi hành án bằng văn bản về NHNN chi nhánh TP. Từ đó, có cơ sở làm việc với cơ quan chức năng, từng bước phối hợp giải quyết rốt ráo vấn đề nợ xấu liên quan đến thi hành án . Về lâu dài, cần xây dựng quy chế phối hợp giữa ngân hàng và cơ quan thi hành án. Có như vậy mới thực hiện tốt việc xử lý nợ xấu liên quan đến công tác thi hành án.
Thứ năm, các nền móng về định chế, luật pháp, giúp các ngân hàng có thể bán nợ xấu với giá trị cao nhất chưa hoàn chỉnh. Trong đó có cơ sở pháp lý để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư (NĐT) nước ngoài, các nguồn vốn nước ngoài muốn tham gia.
Hệ thống pháp lý là một trong những vấn đề cần được tiếp tục hoàn thiện khi giải quyết nợ xấu có liên quan đến tài sản thế chấp. Một khoản nợ có công chứng giao dịch đảm bảo rồi, đăng ký đầy đủ thủ tục pháp lý và ngân hàng là người luôn giữ giấy tờ sở hữu chính. Thế nhưng khi cần phải xử lý, thu hồi nợ thì ngân hàng gần như không có bất cứ quyền gì mà hoàn toàn phụ thuộc vào bên chủ tài sản. Nếu họ không hợp tác, ngân hàng sẽ khó thu giữ được tài sản, không phát mại được và phải nhờ đến cơ quan pháp luật. Song điều đáng nói ở đây, khi đưa ra tòa án chỉ một vụ việc bình thường không có gì phức tạp, mâu thuẫn nhưng thủ tục, quy trình xử lý rất phức tạp, rườm rà. Điều này sẽ làm cho nợ xấu ngày càng trầm trọng. Vì lẽ đó, đáng lẽ với những khoản vay có giấy tờ đầy đủ rồi sẽ phải xử lý nhanh trong vòng vài tháng nhưng chúng ta phải luôn mất vài năm mới xong.
Để thị trường nợ xấu VN được quốc tế hóa thì đầu tiên là phải thay đổi khung pháp lý để cho những người mua nợ có thể thanh lý được nợ, nhất là với tài sản bảo đảm của khoản nợ là bất động sản - vấn đề mà các NHTM trong nước đều ngại mỗi khi bán nợ. Với những tài sản là bất động sản, trước đây được đánh giá cao quá mức để vay cho bằng được, nay giá đi xuống, trong khi thiếu những Công ty định giá độc lập và xử lý một cách khách quan, vậy thì giá mua, giá bán như thế nào là cả một vấn đề không nhỏ. Như vậy, để các nhà ĐTNN quan tâm tới khoản nợ xấu của hệ thống ngân hàng VN thì điều quan trọng nhất là giá, và khung pháp lý. Nếu hai điều này được thực hiện, không chỉ các ngân hàng muốn bán nợ cho VAMC mà các nhà ĐTNN sẽ rất quan tâm tới thị trường nợ của hệ thống ngân hàng VN. Cản trở là hiện nay VN chưa có được một cơ chế đặc thù để thu hút đầu tư từ các tổ chức, DN nước ngoài tham gia mua bán nợ xấu tại VN.
Nếu các khoản nợ xấu cũ không được xử lý sẽ dồn ứ, chất lên khoản mới và làm mất nhiều thời gian, chi phí, cơ hội… cho các bên liên quan. Do đó, cần phải quan tâm đặc biệt đến đẩy nhanh thủ tục pháp lý. Tức là tạo điều kiện tối đa cho các ngân hàng làm việc với cơ quan pháp luật từ Tòa án, Công an đến cơ quan Quản lý nhà đất… Có như vậy mới đẩy nhanh việc xử lý tài sản phát mại. Còn hiện tại chúng ta vẫn đang giải quyết các vụ việc như trong điều kiện nền kinh tế trước đây mà không có cách ứng xử thích ứng đối với khoản nợ xấu trong thời điểm nước sôi lửa bỏng như hiện nay. Nếu không giải quyết vướng mắc về cơ chế này thì đây cũng là lực cản làm khó cho VAMC khi xử lý nợ xấu .
Thứ sáu, nhóm lợi ích khó chấp nhận “mất giá nhiều của khoản nợ ”. Theo báo cáo của NHNN thì tài sản thế chấp có giá trị bằng 135% giá trị khoản nợ. Tuy nhiên, ngân hàng không thể bán lại khoản nợ bằng đúng giá trị sổ sách. Kinh nghiệm thực tế ở các quốc gia cho thấy công ty mua bán nợ thường chỉ mua lại khoản nợ với giá bằng 20-50% giá trị sổ sách tùy thuộc vào chất lượng nợ và chất lượng tài sản thế chấp.
Hiện nay, phần lớn ngân hàng không báo cáo trung thực về tình hình nợ xấu và cũng chưa trích lập dự phòng đầy đủ các khoản nợ xấu. Do vậy, khi bán nợ ngân hàng sẽ bị thua lỗ rất lớn. Chẳng hạn với nợ xấu trên 200 nghìn tỷ đồng, thì với tỷ lệ chiết khấu 50% thì ngân hàng chỉ bán được với giá 100 nghìn tỷ đồng. Hệ thống ngân hàng sẽ mất đi 100 nghìn tỷ đồng - Con số này lớn gấp đôi với lợi nhuận của hệ thống ngân hàng năm 2011.
Như vậy, nếu bán nợ đồng nghĩa với nhiều ngân hàng sẽ thua lỗ và mất vốn. Đây là một cái giá rất khó chấp nhận đối với các ông chủ ngân hàng, cổ đông …. Ông chủ có thể mất kiểm soát ngân hàng của mình và có thể mất luôn cả những doanh nghiệp liên quan. Đối với NHTM nhà nước thì nếu thua lỗ lớn nhiều khoản vay sẽ bị phanh phui, sinh mệnh nhiều lãnh đạo ngân hàng bị tiêu tan. Các nhóm lợi ích ngân hàng cũng khó chậm nhận sự mất mát này. Đối với doanh nghiệp phải thanh lý, phải phá sản cũng là một quyết định không dễ dàng. Đặc biệt là đối với doanh nghiệp nhà nước, thậm chí tập đoàn và công ty phải chấp nhận thanh lý tài sản bị phá sản đồng nghĩa với chấp nhận sự thất bại. Con đường sự nghiệp của những người “quan chức” pha lẫn doanh nhân, thậm chí cả những người cấp cao hơn họ cũng tiêu tan. Đây là một cái giá quá đắt khó chấp nhận và cũng là rào cản lớn nhất đối với quá trình xử lý nợ xấu ở Việt Nam.
Hiện nay, phần lớn ngân hàng không báo cáo trung thực về tình hình nợ xấu và cũng chưa trích lập dự phòng đầy đủ các khoản nợ xấu. Do vậy, khi bán nợ ngân hàng sẽ bị thua lỗ rất lớn. Chẳng hạn với nợ xấu trên 200 nghìn tỷ đồng, thì với tỷ lệ chiết khấu 50% thì ngân hàng chỉ bán được với giá 100 nghìn tỷ đồng. Hệ thống ngân hàng sẽ mất đi 100 nghìn tỷ đồng - Con số này lớn gấp đôi với lợi nhuận của hệ thống ngân hàng năm 2011.
Như vậy, nếu bán nợ đồng nghĩa với nhiều ngân hàng sẽ thua lỗ và mất vốn. Đây là một cái giá rất khó chấp nhận đối với các ông chủ ngân hàng, cổ đông …. Ông chủ có thể mất kiểm soát ngân hàng của mình và có thể mất luôn cả những doanh nghiệp liên quan. Đối với NHTM nhà nước thì nếu thua lỗ lớn nhiều khoản vay sẽ bị phanh phui, sinh mệnh nhiều lãnh đạo ngân hàng bị tiêu tan. Các nhóm lợi ích ngân hàng cũng khó chậm nhận sự mất mát này. Đối với doanh nghiệp phải thanh lý, phải phá sản cũng là một quyết định không dễ dàng. Đặc biệt là đối với doanh nghiệp nhà nước, thậm chí tập đoàn và công ty phải chấp nhận thanh lý tài sản bị phá sản đồng nghĩa với chấp nhận sự thất bại. Con đường sự nghiệp của những người “quan chức” pha lẫn doanh nhân, thậm chí cả những người cấp cao hơn họ cũng tiêu tan. Đây là một cái giá quá đắt khó chấp nhận và cũng là rào cản lớn nhất đối với quá trình xử lý nợ xấu ở Việt Nam.
Thứ bảy, để VAMC quốc gia hoạt động hiệu quả, kinh nghiệm các nước đã chỉ ra rằng trước hết, VAMC phải xác định rõ mục tiêu và kế hoạch kinh doanh một cách dài hạn, rõ ràng nhằm tạo khuôn khổ cho hoạt động của VAMC; xác định vai trò của VAMC là thúc đẩy nhanh quá trình chuyển nhượng tài sản, xử lý nợ xấu hoặc tối đa hóa giá trị tài sản; xây dựng phương án kinh doanh ban đầu; xác định chiến lược cho các tài sản sau thu hồ.
Cần đề cao vấn đề quản trị và tính minh bạch của VAMC thông qua sở hữu đội ngũ chuyên gia có chuyên môn cao nhưng độc lập với ngân hàng. Cùng đó, phải giảm thiểu hành vi lạm quyền bởi chúng có vai trò quan trọng trong việc củng cố niềm tin. Nhưng cho tới nay, Thông tư hướng dẫn hoạt động của VAMC vẫn chưa ra đời. Nội dung của Thông tư này cần đưa ra các nguyên tắc cơ bản về các phương thức VAMC có thể tiến hành mua lại nợ xấu.
Đặc biệt, Thông tư sẽ cụ thể hóa các quy trình mua nợ xấu giữa các ngân hàng và VAMC thông qua phát hành các trái phiếu đặc biệt. Thông tư cũng cần đặt ra các điều kiện trước khi VAMC mua nợ xấu theo giá thị trường và đặt ra một quy trình chung về bán tài sản đảm bảo cũng như quy định về phân phối tiền thu được từ việc bán nợ xấu. Đồng thời các quy định liên quan đến phương pháp giao dịch, và bán tài sản đảm bảo cần có hướng dẫn cụ thể . Thông tư này phải được ban hành trước khi giao dịch mua nợ xấu đầu tiên của VAMC được công bố.
Cần đề cao vấn đề quản trị và tính minh bạch của VAMC thông qua sở hữu đội ngũ chuyên gia có chuyên môn cao nhưng độc lập với ngân hàng. Cùng đó, phải giảm thiểu hành vi lạm quyền bởi chúng có vai trò quan trọng trong việc củng cố niềm tin. Nhưng cho tới nay, Thông tư hướng dẫn hoạt động của VAMC vẫn chưa ra đời. Nội dung của Thông tư này cần đưa ra các nguyên tắc cơ bản về các phương thức VAMC có thể tiến hành mua lại nợ xấu.
Đặc biệt, Thông tư sẽ cụ thể hóa các quy trình mua nợ xấu giữa các ngân hàng và VAMC thông qua phát hành các trái phiếu đặc biệt. Thông tư cũng cần đặt ra các điều kiện trước khi VAMC mua nợ xấu theo giá thị trường và đặt ra một quy trình chung về bán tài sản đảm bảo cũng như quy định về phân phối tiền thu được từ việc bán nợ xấu. Đồng thời các quy định liên quan đến phương pháp giao dịch, và bán tài sản đảm bảo cần có hướng dẫn cụ thể . Thông tư này phải được ban hành trước khi giao dịch mua nợ xấu đầu tiên của VAMC được công bố.