Những nhân tố tác động đến huy động vốn cho phát triển công nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam
Huy động vốn cho phát triển công nghiệp công nghệ cao (CNCNC) có vai trò quan trọng, nhằm xây dựng một nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, quá trình này, ngoài có chủ trương, chính sách, chiến lược phù hợp còn cần phải tận dụng tối đa các nhân tố tác động đến huy động vốn, coi đây là nội dung hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đến phát triển CNCNC ở Việt Nam hiện nay.
Huy động vốn cho phát triển công nghiệp công nghệ cao
Trong xu thế toàn cầu hóa và tác động mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0), phát triển CNCNC là xu thế tất yếu, là nhân tố quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đây là ngành kinh tế - kỹ thuật sản xuất đòi hỏi vốn lớn, quy trình sản xuất hiện đại, tạo ra sản phẩm công nghệ cao, cung ứng dịch vụ công nghệ cao, góp phần nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo vệ môi trường và giải quyết các vấn đề xã hội. Huy động vốn có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, là yếu tố đầu vào, điều kiện vật chất không thể thiếu, tác động trực tiếp tới việc nâng cao năng lực, mở rộng quy mô, tăng cường sức cạnh tranh và tiềm lực của các doanh nghiệp CNCNC.
Ở Việt Nam hiện nay, huy động vốn cho phát triển CNCNC có thể hiểu là hoạt động của các chủ thể nhằm điều động, tập trung, thu hút các nguồn vốn khác nhau trong xã hội theo đúng quy định của pháp luật để phát triển CNCNC với kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại, tạo nền tảng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Vốn cho phát triển CNCNC được huy động từ nhiều nguồn khác nhau như: Huy động theo chỉ tiêu, kế hoạch phân bổ các nguồn vốn từ ngân sách trung ương, ngân sách địa phương theo chỉ tiêu, kế hoạch phân bổ hàng năm cho phát triển CNCNC; việc phân bố và bảo đảm ngân sách cho phát triển CNCNC được lập kế hoạch chi tiết, cụ thể, rõ ràng. Huy động vốn theo cơ chế thị trường thông qua vay vốn tín dụng của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân (chủ yếu là của các ngân hàng) trong và ngoài nước để thực hiện các chương trình, dự án phát triển CNCNC. Bên cạnh đó, vốn còn được huy động thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu với mức lãi suất thích hợp để thu hút nhà đầu tư.
Tính đến nay, lượng vốn huy động cho phát triển CNCNC ở Việt Nam được tăng lên nhanh chóng, chủ yếu tập trung vào các Khu CNC Hòa Lạc, Khu CNC TP. Hồ Chí Minh, Khu CNC Đà Nẵng và một số địa phương có tiềm năng, lợi thế trong phát triển CNCNC như: Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình Dương… với nhiều dự án lên đến tỷ USD. Đến nay, Khu CNC Hòa Lạc đã thu hút được trên 100 dự án đầu tư, chủ yếu là các dự án, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNC, với tổng số vốn đầu tư khoảng 94.760 tỷ đồng; riêng năm 2021, thu hút được 6 dự án, với tổng vốn đầu tư khoảng 5.590 tỷ đồng.
Tại Khu CNC TP. Hồ Chí Minh đã cấp đăng ký đầu tư cho 163 dự án với tổng vốn 12,1 tỷ USD, trong đó có 10 tỷ USD của nhà đầu tư nước ngoài. Có nhiều doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đầu tư vào CNCNC với số vốn lớn đang hoạt động hiệu quả tại Việt Nam như: Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel ( đầu tư 3.700 tỷ đồng); Tập đoàn Vingroup (9.020 tỷ đồng); Tập đoàn FPT (5.430 tỷ đồng); Tập đoàn VNPT (3.765 tỷ đồng); Intel (1 tỷ USD), Nidec (0,38 tỷ USD)… Riêng tập đoàn Samsung (Hàn Quốc) đầu tư vào Việt Nam lên đến 19,4 tỷ USD, chủ yếu sản xuất sản phẩm CNCNC.
Trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, huy động vốn cho phát triển CNCNC chịu sự tác động, ảnh hưởng của nhiều nhân tố trong nước và quốc tế.
Các yếu tố ảnh hưởng đến huy động vốn phát triển công nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam
Thực tế cho thấy, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến huy động vốn phát triển công nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể:
Thứ nhất, sự phát triển của khoa học công nghệ trên thế giới.
Thế giới đang bước vào cuộc CMCN 4.0, khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trở thành động lực mạnh mẽ để phát triển xã hội nói chung, công nghiệp nói riêng. Điều này đã tác động to lớn đến sự phát triển CNCNC ở Việt Nam.
Nước ta có cơ hội tiếp thu những thành tựu mà CMCN 4.0 mang lại làm thay đổi phương thức sản xuất, tạo nên bước nhảy vọt về lực lượng sản xuất. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tập trung đẩy mạnh CNH, HĐH dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.
Vì vậy, CMCN 4.0 tạo điều kiện để Việt Nam rút ngắn khoảng cách bằng cách tận dụng những thành tựu khoa học và công nghệ mới để thúc đẩy CNCNC phát triển. Việt Nam đang trong quá trình phát triển, khoa học công nghệ đã đạt được những thành tựu nhất định, một số ngành thuộc CNCNC đã tiệm cận với trình độ của các nước có nền khoa học công nghệ phát triển. Cùng với đó, các chính sách huy động vốn linh hoạt, phù hợp đã hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào phát triển CNCNC ngày càng tăng; Tạo cơ hội thuận lợi khi nhà đầu tư, các tổ chức, doanh nghiệp, đầu tư vốn cho phát triển CNCNC.
Tuy nhiên, CMCN 4.0 cũng mang lại nhiều thách thức cho phát triển CNCNC của Việt Nam. Trong khi các nước phát triển đã đề ra chiến lược huy động vốn phù hợp với điều kiện của mình thì với Việt Nam, thuật ngữ CMCN 4.0 mới được đề cập đến trong vài năm gần đây. Cùng với điểm xuất phát và trình độ công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, phát triển CNCNC ở Việt Nam đa số quy mô nhỏ và siêu nhỏ, nhận thức về đổi mới sáng tạo còn chưa cao, việc huy động vốn cho phát triển CNCNC sẽ gặp những khó khăn, thách thức không nhỏ, đặc biệt trong cạnh tranh thu hút vốn với các nước có trình độ khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới.
Thứ hai, xu thế hội nhập và hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng.
Hội nhập và hợp tác quốc tế chi phối mạnh mẽ đến sự phát triển CNCNC, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tận dụng lợi thế so sánh nhằm phát huy hiệu quả trong huy động vốn cho phát triển CNCNC (bởi nó tác động tới cả đầu vào, đầu ra, cũng như cả quá trình sản xuất của các chủ thể trong lĩnh vực CNC).
Trước hết, các quan hệ kinh tế quốc tế của đất nước được thiết lập tạo điều kiện cho các hoạt động huy động vốn trong phát triển CNCNC diễn ra thuận lợi. Các hoạt động như xuất và nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, bí quyết công nghệ, sáng chế phát minh trong lĩnh vực CNCNC; gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công các sản phẩm CNC; đầu tư quốc tế và hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ có thực hiện được trôi chảy hay không cần có nguồn vốn đầu tư từ các nước, nhất là các nước có trình độ phát triển cao.
Đặc biệt, khi Việt Nam tham gia vào các hiệp định thương mại, các tổ chức quốc tế như Diễn đàn Hợp tác châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)…; các doanh nghiệp sẽ được tiếp cận thị trường vốn toàn diện giảm dần phụ thuộc nguồn vốn vào số ít đối tác; tham gia vào thị trường tài chính, thị trường vốn giữa các nước trong khối và sẽ giúp cho các doanh nghiệp CNCNC hội nhập sâu hơn vào tài chính thế giới, tiếp cận nguồn vốn quốc tế với chi phí thấp.
Tuy nhiên, cùng với những cơ hội mang lại, huy động vốn cho phát triển CNCNC ở Việt Nam phải đối mặt với môi trường hoạt động đầy rủi ro, xuất hiện nhiều “đối thủ” cạnh tranh khiến cho quá trình cạnh tranh thu hút vốn giữa các quốc gia gay gắt, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn.
Luồng vốn từ các nước vào Việt Nam đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, thị phần vốn cho phát triển CNCNC có thể bị thu hẹp, thậm chí nguy cơ mất thị phần. Bởi vậy, muốn huy động vốn cho phát triển CNCNC hiệu quả, nhất là nguồn vốn nước ngoài cần có chiến lược, cơ chế, chính sách huy động vốn phù hợp, tích cực, chủ động hợp tác với các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)…
Thứ ba, cơ chế, chính sách huy động vốn cho phát triển công nghiệp công nghệ cao.
Năm 2010, Chính phủ đã đề ra Chương trình quốc gia phát triển CNC đến năm 2020; năm 2012 Chính phủ đề ra Kế hoạch thực hiện Chương trình này gồm 03 phần, trong đó có Chương trình phát triển một số ngành CNCNC do Bộ Công Thương chủ trì và Chương trình nghiên cứu, đào tạo và xây dựng hạ tầng kỹ thuật CNC do Bộ Khoa học và công nghệ chủ trì. Chủ trương về phát triển CNCNC được thể hiện trong Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 23‐NQ/TW của Bộ Chính trị về Định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Quyết định số 130/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030. Theo đó, mục tiêu đến năm 2030, tỷ trọng giá trị sản phẩm CNCNC trong các ngành chế biến, chế tạo nước ta đạt tối thiểu 45%. Những chính sách trên đã mở ra điều kiện thuận lợi đối với việc huy động vốn từ các nguồn khác nhau cho phát triển CNCNC ở nước ta; Tạo cơ sở cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp có nhiều cơ hội để đầu tư vào phát triển CNCNC.
Mục tiêu có tính chất bao trùm của chính sách vốn cho công nghiệp, trong đó có phát triển CNCNC là huy động mọi nguồn vốn đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển công nghiệp đảm bảo hiệu quả, bền vững. Như vậy, Nhà nước có vai trò trực tiếp huy động vốn và tạo tiền đề cần thiết nhằm huy động vốn cho phát triển CNCNC. Những chính sách có tác động đó là: Công tác quy hoạch phát triển CNCNC, các chính sách ưu đãi huy động vốn đầu tư, chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp, chính sách về kết cấu hạ tầng công nghiệp, chương trình quốc gia phát triển CNC …
Thứ tư, sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của thị trường vốn.
Hệ thống cung ứng nguồn vốn bao gồm: Các tổ chức tín dụng (hệ thống ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, các tổ chức tài chính vi mô, hệ thống quỹ tín dụng, các tổ chức tín dụng nước ngoài); nguồn vốn từ các nguồn không chính thức từ quan hệ cá nhân; nguồn vốn từ các chương trình, dự án của nhà nước và tổ chức.
Nguồn vốn từ các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong, ngoài nước đang có xu hướng đầu tư vào lĩnh vực khoa học công nghệ; trong đó, CNCNC là lĩnh vực luôn được ưu tiên. Sự phát triển của hệ thống cung ứng vốn về hình thức, quy mô, mạng lưới, chất lượng sản phẩm dịch vụ, năng lực cung ứng, tính ổn định và an toàn của hệ thống sẽ có tác động đến nguồn vốn cho phát triển kinh tế, xã hội nói chung và cho các doanh nghiệp CNCNC nói riêng.
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; luôn quan tâm đến đổi mới, ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào mọi lĩnh vực kinh tế, trong đó, có lĩnh vực phát triển CNCNC. Điều đó tác động lớn đối với việc huy động vốn cho phát triển CNCNC từ các nguồn khác nhau, nhất là các tổ chức tín dụng, các nhà đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, hệ thống tín dụng, ngân hàng ở Việt Nam phát triển rất mạnh mẽ, đa dạng, các tổ chức tài chính hàng đầu thế giới cũng đang hiện diện và sẵn sàng cung ứng vốn cho các dự án CNCNC ở Việt Nam. Tuy nhiên, thị trường vốn cũng biến động liên tục ảnh hưởng đến nguồn cung vốn, nhất là một số lĩnh vực CNCNC đòi hỏi vốn lớn, quay vòng vốn chậm, gây khó khăn trong việc tiếp cận, huy động vốn. Do vậy, để huy động vốn hiệu quả cho phát triển CNCNC cần đa dạng sự lựa chọn, tiếp cận các nguồn vốn khác nhau, đảm bảo cho phát triển CNCNC mang tính bền vững.
Tài liệu tham khảo:
- Ban Quản lý Khu công nghệ cao Hòa Lạc, Ban hỗ trợ đầu tư (2022), Báo cáo về tình hình thu hút đầu tư từ 2021 đến 6/2022 tại khu công nghệ cao Hòa Lạc, Hà Nội;
- Ban Quản lý Khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh (2022), Báo cáo về tình hình thu hút đầu tư từ 2021 đến 8/2022 tại khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh;
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, II; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.234,235;
- Quốc hội (2008), Luật Công nghệ cao, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
- Lại Trần Tùng (2020), Phát triển công nghiệp công nghệ cao ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.