Pháp luật tài chính doanh nghiệp so sánh giữa Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Doanh nghiệp 2005
Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh. Các quan hệ tài chính phát sinh trong quá trình thành lập, hoạt động, tổ chức lại hoặc giải thể doanh nghiệp được pháp luật điều chỉnh, trong đó, Luật Doanh nghiệp là nguồn luật chủ yếu.
Nếu căn cứ vào hình thức pháp lý của doanh nghiệp, doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay bao gồm: (i) Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, (ii) Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, (iii) Công ty cổ phần, (iv) Công ty hợp danh, (v) Doanh nghiệp tư nhân.
Dưới góc độ tài chính doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp 2014 đã kế thừa đồng thời sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005, tạo cơ sở pháp lý phù hợp hơn cho quá trình tạo lập, quản lý, sử dụng các quỹ tiền tệ, đáp ứng yêu cầu kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa các doanh nghiệp, tạo cơ chế pháp lý để các doanh nghiệp thực sự có quyền tự chủ, tự định đoạt, đồng thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan.
Về thời hạn góp vốn: Đối với doanh nghiệp gắn với chế độ trách nhiệm hữu hạn về tài sản trong kinh doanh (công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần) Luật Doanh nghiệp 2014 quy định thời hạn góp vốn (tối đa) của chủ sở hữu vào công ty là không quá 90 ngày kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Trước ngày 1/7/2015 (trước thời điểm Luật Doanh nghiệp 2014 có hiệu lực), thời hạn góp vốn tối đa của chủ sở hữu vào công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ được quy định trong văn bản dưới luật (Nghị định số 102/CP ngày 1/10/2010 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp 2005) và thời hạn này là không quá 36 tháng kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đăng ký bổ sung, thay đổi thành viên. Trong khi đó, đối với công ty cổ phần, mặc dù thường có quy mô lớn hơn, cơ cấu tổ chức phức tạp hơn nhưng các cổ đông công ty cũng chỉ có tối đa 90 ngày kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp để thanh toán hết số cổ phần đã đăng ký mua.
Như vậy, với việc thống nhất quy định về thời hạn góp vốn của chủ sở hữu với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần ngay trong Luật Doanh nghiệp 2014, không những khắc phục được quy định bất bình đẳng trước kia giữa các nhà đầu tư mà còn nâng cao giá trị pháp lý của các quy phạm pháp luật (trước kia chỉ được quy định tại Nghị định hướng dẫn thi hành Luật (Luật Doanh nghiệp 2005 không quy định thời hạn này).
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: Chủ sở hữu phải góp vốn đầy đủ và đúng hạn như đã cam kết; trường hợp không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty. Tuy nhiên, Luật này không quy định nghĩa vụ đăng ký thay đổi vốn điều lệ của công ty khi chủ sở hữu không góp đủ số vốn cam kết.
Mặt khác, Luật Doanh nghiệp 2005 không cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên được giảm vốn điều lệ nên công ty cũng không có quyền đăng ký giảm vốn điều lệ trong trường hợp nêu trên. Từ quy định này mà trên thực tế có trường hợp chủ sở hữu không góp đủ vốn đã cam kết nhưng không được đăng ký giảm vốn điều lệ, vì vậy, trong kinh doanh vốn chủ sở hữu luôn nhỏ hơn vốn điều lệ, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ, khách hàng.
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: Người đại diện theo pháp luật của công ty phải thông báo bằng văn bản tiến độ góp vốn đăng ký đến cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày cam kết góp vốn và phải chịu trách nhiệm cá nhân về các thiệt hại cho công ty và người khác do thông báo chậm trễ hoặc thông báo không chính xác, không trung thực, không đầy đủ.
Trường hợp có thành viên không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp được coi là nợ của thành viên đó đối với công ty; thành viên đó phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh do không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết. Sau thời hạn cam kết lần cuối mà vẫn có thành viên chưa góp đủ số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp được xử lý theo một trong các cách sau đây:
Về vấn đề này, Luật Doanh nghiệp 2014 đã sửa đổi: Trong thời hạn cam kết góp vốn thành viên có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp như đã cam kết góp. Sau thời hạn quy định mà vẫn có thành viên chưa góp hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết, công ty phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ, tỷ lệ phần vốn góp của các thành viên bằng số vốn đã góp trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày cuối cùng phải góp đủ phần vốn góp theo quy định.
Các thành viên chưa góp vốn hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết phải chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời gian trước ngày công ty đăng ký thay đổi vốn điều lệ và phần vốn góp của thành viên.
Theo Luật Doanh nghiệp 2005, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên trong quá trình hoạt động đều được tăng vốn điều lệ. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần có thể được điều chỉnh giảm vốn điều lệ, nhưng công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được giảm vốn điều lệ trong quá trình kinh doanh.
Quy định này đã tạo nên sự bất bình đẳng về mặt pháp lý cho các công ty vì cùng hoạt động trong một môi trường kinh doanh như nhau nhưng các công ty khác có thể giảm vốn điều lệ để thu hẹp quy mô kinh doanh khi thương trường có những diễn biến bất lợi hoặc do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác, nhưng công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên lại không có được quyền này. Mặt khác, trên thực tế nhiều công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên giảm vốn điều lệ nhưng không được đăng ký giảm, do vậy, vốn điều lệ thực có với vốn đăng ký ghi trong điều lệ không trùng khớp (tình trạng vốn “ảo”) là khá phổ biến.