Phát triển bảo hiểm vi mô, góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam
Theo cách tiếp cận về dịch vụ tài chính, tài chính toàn diện là các dịch vụ có thể đáp ứng các mục đích sử dụng: giao dịch, thanh toán, tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm. Một trong những nội dung của tiếp cận tài chính toàn diện là phát triển các sản phẩm bảo hiểm, trong đó có bảo hiểm vi mô cung cấp dịch vụ tài chính nhằm dự phòng rủi ro và tích lũy hướng đến những người có thu nhập thấp, dễ bị tổn thương.
Khái quát về bảo hiểm vi mô
Bảo hiểm vi mô là các sản phẩm bảo hiểm được thiết kế và cung cấp cho người nghèo, người có thu nhập thấp và những người yếu thế trong xã hội, với đặc điểm phí bảo hiểm thấp, số tiền bảo hiểm nhỏ, sản phẩm bảo hiểm thật đơn giản, dễ hiểu.
Bảo hiểm vi mô hướng tới các cá nhân thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ có mức sống trung bình, cá nhân có thu nhập thấp nhằm đáp ứng nhu cầu tiết kiệm và bảo vệ trước những rủi ro có thể xảy ra trong cuộc sống theo nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi về bảo hiểm.
Theo Báo cáo Triển vọng việc làm và xã hội châu Á – Thái Bình Dương năm 2020, với tác động của đại dịch Covid-19, khoảng 22 - 25 triệu người trong khu vực có thể rơi vào tình trạng có việc làm vẫn nghèo, theo đó tổng số người có việc làm vẫn nghèo (những người có thu nhập chưa đến 1,90 USD một ngày) của khu vực châu Á – Thái Bình Dương tăng lên mức 94 - 98 triệu người năm 2020.
Các sản phẩm bảo hiểm vi mô theo đối tượng chủ yếu gồm:
- Bảo hiểm con người gồm: Bảo hiểm về y tế, chăm sóc sức khỏe (hỗ trợ chi phí nằm viện, phẫu thuật cho người được bảo hiểm theo thỏa thuận khi người được bảo hiểm nằm viện, phẫu thuật); Bảo hiểm tai nạn (thương tật do tai nạn của người được bảo hiểm); Bảo hiểm tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn (người được bảo hiểm tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn thuộc phạm vi bảo hiểm và trong thời hạn quy định, hỗ trợ mai táng phí); Bảo hiểm tiết kiệm tuổi già…
- Bảo hiểm tài sản: Bảo hiểm thiệt hại máy móc, thiết bị sản xuất, cây trồng, vật nuôi: chi trả số tiền bảo hiểm theo thỏa thuận do thiệt hại về máy móc, thiết bị dùng cho sản xuất, cây trồng, vật nuôi thuộc quyền sở hữu của thành viên tham gia bảo hiểm.
Chủ thể cung ứng bảo hiểm vi mô có thể là các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp. Bảo hiểm vi mô giữ vai trò quan trọng trong đảm bảo an sinh xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo bao gồm các sản phẩm bảo hiểm được thiết kế và cung cấp cho người nghèo, người có thu nhập thấp và những người yếu thế trong xã hội, là một trong những giải pháp góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện.
Không chỉ được coi như một công cụ hữu hiệu để “bảo vệ” cho những hộ gia đình nghèo, bảo hiểm vi mô còn góp phần nâng cao sự hiểu biết về nhu cầu được bảo hiểm trong cộng đồng những người dân có mức thu nhập thấp và trung bình tại các vùng nông thôn, bảo hiểm vi mô còn đem lại kiến thức về tài chính bảo hiểm hay đơn giản hơn là giúp những người dân nghèo có thói quen tích lũy tài chính.
Theo Báo cáo Triển vọng việc làm và xã hội châu Á – Thái Bình Dương năm 2020, với tác động của đại dịch Covid-19, khoảng 22 - 25 triệu người trong khu vực có thể rơi vào tình trạng có việc làm vẫn nghèo, theo đó tổng số người có việc làm vẫn nghèo (những người có thu nhập chưa đến 1,90 USD một ngày) của khu vực châu Á – Thái Bình Dương tăng lên mức 94 - 98 triệu người năm 2020. Điều này khiến cho nhu cầu phát triển loại hình bảo hiểm vi mô càng cần thiết hơn nhằm thúc đẩy tiếp cận tài chính của các chủ thể yếu thế trong xã hội.
Thực tiễn triển khai bảo hiểm vi mô ở Việt Nam
Ở Việt Nam, bảo hiểm vi mô bắt đầu triển khai độc lập với các chương trình tài chính vi mô từ cuối thập niên 1990. Năm 1998, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam thông qua Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Hội Nông dân Việt Nam đã tiến hành thử nghiệm bán bảo hiểm cho nông dân tại Nghệ An. Tuy nhiên, dự án này đã không mấy thành công do mức phí quá cao (100.000 đồng/tháng). Sau đó, mô hình này tiếp tục được triển khai ở Huế với mức phí thấp hơn (77.000 đồng/năm) và đã đạt kết quả tích cực.
Về phía các DN, năm 2004, Bảo Việt đã thử nghiệm triển khai thông qua quan hệ đối tác với Quỹ hỗ trợ Ninh Phước để phân phối sản phẩm bảo hiểm nhân thọ tín dụng cho thành viên vay vốn có thu nhập thấp, với phí bảo hiểm là 0,9% số tiền vay/năm.
Mô hình này được đánh giá là tương đối thành công. Năm 2005, Prevoir sử dụng mạng lưới tiết kiệm bưu điện để bán bảo hiểm tử kỳ do tai nạn cho đối tượng có thu nhập thấp (phí bảo hiểm là 26.000 đồng/năm). Đây chỉ là 2 trong số những dự án triển khai cho đối tượng có thu nhập thấp. Bắt đầu từ năm 2010, các sản phẩm bảo hiểm vi mô được các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và các tổ chức chính trị- xã hội; xã hội- nghề nghiệp cung ứng với nhiều loại hình bảo hiểm khác nhau, từ triển khai ở một số địa phương đến triển khai trên toàn quốc.
Một số sản phẩm bảo hiểm được triển khai phổ biến trên thị trường Việt Nam hiện nay như:
- Bảo hiểm tài sản, trách nhiệm: Từ nhiều năm nay, hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp (BHNN), tạo chỗ dựa cho nông dân đã được Nhà nước quan tâm. Ngay từ năm 2010, nhằm giúp nông dân bớt thiệt hại khi gặp rủi ro, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ Đề án thực hiện thí điểm BHNN giai đoạn 2010- 2013. Từ Đề án này, Nhà nước đã hỗ trợ 80 - 90% phí bảo hiểm cho hộ nông dân nghèo; 60% cho hộ nông dân không thuộc diện nghèo; 50% cho tổ chức sản xuất nông nghiệp tham gia thí điểm BHNN.
Theo Đề án, có 3 đối tượng được bảo hiểm gồm: Cây trồng là cây lúa; vật nuôi trâu, bò, heo, gia cầm; thủy sản (gồm cá tra, cá ba sa, tôm sú, tôm chân trắng)... Cũng theo Đề án này, các loại thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh trong nông nghiệp như: Bão, lũ lụt, hạn hán, rét đậm, rét hại, sương giá... và dịch bệnh như cúm đối với gia cầm; dịch tai xanh đối với heo; bệnh lở mồm long móng đối với gia súc; bệnh thủy sản đối với tôm, cá tra; dịch rầy nâu, vàng lùn, lùn xoắn lá đối với cây lúa... sẽ được ưu tiên bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm được phép thực hiện thí điểm BHNN có trách nhiệm áp dụng các sản phẩm BHNN.
Năm 2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 58/2018/NĐ-CP về BHNN như một công cụ quan trọng để người nông dân yên tâm lao động sản xuất trên cánh đồng của mình. Có 7 tỉnh được hỗ trợ phí BHNN đối với cây lúa gồm: Thái Bình, Nam Định, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Thuận, An Giang, Đồng Tháp; 8 tỉnh, thành được hỗ trợ phí BHNN đối với trâu, bò gồm: Hà Giang, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Đồng Nai, Bình Dương;
5 tỉnh được hỗ trợ phí BHNN đối với tôm sú, tôm thẻ chân trắng gồm: Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. UBND các tỉnh, thành thuộc các địa bàn trên tổ chức lựa chọn địa bàn được hỗ trợ BHNN theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Nghị định số 58/2018/NĐ-CP. Thời gian thực hiện hỗ trợ phí BHNN từ ngày Quyết định số 22/2019/QĐ-TTg có hiệu lực (26/6/2019) đến hết ngày 31/12/2020. Sau đó, Thủ tướng ban hành Quyết định số 03/2021/QĐ-TTg ngày 25/01/2021 sửa đổi Quyết định số 22/2019/QĐ-TTg về thực hiện chính sách hỗ trợ BHNN, thời gian thực hiện hỗ trợ phí BHNN đến hết ngày 31/12/2021.
Đối với phương thức BHNN thương mại theo hình thức tự nguyện (Nhà nước không hỗ trợ phí), một số công ty hiện đang triển khai như Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp (ABIC), Công ty CP Bảo hiểm Quân đội (MIC). Tổng hợp giai đoạn 3 năm 2018-2020, ABIC đã triển khai ở 17 tỉnh, thành. Trong đó, bảo hiểm vật nuôi (bò sữa, trâu bò thịt, trâu bò giống) với 182 hộ, 20 tổ chức tham gia số lượng 18.192 con, doanh thu bảo hiểm đạt 2.653,62 triệu đồng, giá trị bảo hiểm là 516.352,22 triệu đồng. Bảo hiểm cây trồng (chủ yếu cho cây cao su, keo) với diện tích được bảo hiểm là 5.706,73 ha của 10 hộ, 13 tổ chức tham gia. Giá trị bảo hiểm cho cây trồng đạt 253.934,31 triệu đồng và doanh thu bảo hiểm là 998,54 triệu đồng.
Cùng với sự phát triển của Cách mạng công nghiệp 4.0, hiện nay dịch vụ bảo hiểm vi mô số hóa đã được triển khai tại thị trường Việt Nam: Igloo - Công ty Công nghệ bảo hiểm có trụ sở tại Singapore vừa chính thức ra mắt tại Việt Nam thông qua việc công bố hai đối tác lớn: Tổng công ty Viễn thông Mobifone và Loship - startup giao đồ ăn và thương mại điện tử giao hàng trong một giờ tại Việt Nam, nhằm cung cấp các dịch vụ bảo hiểm vi mô tới người dân Việt Nam.
Hợp tác với Igloo cho phép Loship cung cấp dịch vụ bảo hiểm rủi ro giao hàng không thành công cho 70.000 tài xế giao hàng để các tài xế này có thể dễ dàng hoàn thành công việc của họ. Với mức phí hợp lý là 28.900 đồng/tháng (1,25 USD/tháng), bảo hiểm giao hàng không thành công cho phép tài xế giao hàng nhận được phí vận chuyển trả hàng nếu người tiêu dùng quyết định trả lại đơn hàng vì sản phẩm được giao không đúng với đơn hàng. Sản phẩm bảo hiểm này có thể giảm thiểu các thiệt hại do sự cố trong quá trình giao hàng và thực hiện đơn hàng gây ra, đặc biệt khi mua sắm trực tuyến tại Việt Nam có mức tăng trưởng 25% trong thời gian đại dịch Covid-19.
Igloo còn nắm bắt cơ hội từ nền kinh tế số đang bùng nổ của Việt Nam khi thiết bị di động được sử dụng nhiều nhất và khách hàng ngày càng hiểu biết hơn về công nghệ, bằng cách hợp tác với Mobifone để đưa dịch vụ “Mobicare” tới cho 30 triệu thuê bao di động của Mobifone. “Mobicare” là một sản phẩm bảo hiểm tai nạn cá nhân được thiết kế riêng cho khách hàng của Mobifone bao gồm trợ cấp chi phí hàng ngày, gói dữ liệu internet và dịch vụ tư vấn từ xa…
- Bảo hiểm con người (sinh mạng, thương tật và sức khoẻ): Hiện nay, các sản phẩm bảo hiểm vi mô con người mới chỉ có một số đối tượng hạn chế (cán bộ hưu trí, cho học sinh, sinh viên) được bảo hiểm và mức trách nhiệm bảo hiểm khá nhỏ.
Các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ (BHNT) gần như chưa đến được với người có thu nhập thấp mà lý do chủ yếu vẫn là hiệu quả kinh doanh thấp khi các doanh nghiệp triển khai đến các đối tượng này. Trong các sản phẩm bảo hiểm con người, BHNT hiện nay, chỉ có sản phẩm bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm con người kết hợp có mức phí bảo hiểm phù hợp với người có thu nhập thấp. Đối với bảo hiểm y tế (BHYT) được thực hiện chủ yếu thông qua việc cấp miễn phí BHYT đối với người nghèo.
Theo thống kê, tính đến hết năm 2020, Việt Nam có khoảng 10 triệu người tham gia BHNT, tương đương 10% dân số, 4 triệu người tham gia BHYT, sức khỏe ngắn hạn; 12 triệu học sinh được bảo hiểm chăm sóc sức khỏe và tai nạn; 18 triệu lượt khách được bảo hiểm hàng không; trên 12 triệu lượt khách được bảo hiểm tai nạn đường sắt; 1.620 triệu lượt khách được bảo hiểm tai nạn hành khách vận chuyển đường bộ.
Tuy nhiên, tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp đã gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện nhiệm vụ của ngành BHXH Việt Nam. Tính đến ngày 7/4/2021, số người tham gia BHXH đạt trên 16 triệu người (đạt 32,17% lực lượng lao động trong độ tuổi). Trong đó, số người tham gia BHXH bắt buộc đạt 15 triệu người, giảm trên 161 nghìn người so với cuối năm năm 2020; trên 1,1 triệu người tham gia BHXH tự nguyện, giảm gần 39 nghìn người so với hết năm 2020. Toàn quốc có gần 87 triệu người tham gia BHYT, đạt tỷ lệ bao phủ 89,04% dân số; giảm trên 613 nghìn người.
Hiện nay, bảo hiểm vi mô được triển khai ở cả khối doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức chính trị - xã hội từ những năm 2008. Về các doanh nghiệp, trên thị trường Việt Nam chỉ có 3 doanh nghiệp bảo hiểm là Prudential, Manulife và Dai-ichi cung cấp sản phẩm dành riêng cho người có thu nhập thấp.
Tuy nhiên, do Luật Kinh doanh bảo hiểm chưa có quy định riêng với tổ chức triển khai bảo hiểm vi mô, các DN khi triển khai bảo hiểm cho người có thu nhập thấp vẫn phải thực hiện các yêu cầu về vốn, chi phí phân phối như đối với các sản phẩm thương mại thông thường, do đó việc triển khai trong thời gian qua chưa thu được nhiều kết quả. Prudential và Dai-ichi đã ngừng triển khai sản phẩm này.
Bên cạnh các DN bảo hiểm, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (LHPN) cũng đang cung cấp bảo hiểm vi mô cho các thành viên. Năm 2008, Hội LHPN đã thực hiện dự án thí điểm bảo hiểm vi mô với tên gọi Dự án Quỹ Tương trợ để cung cấp sản phẩm bảo hiểm vi mô cho thành viên của Hội thông qua mạng lưới hoạt động của Tổ chức tài chính vi mô TNHH một thành viên Tình Thương (TYM). Năm 2014, Chính phủ đã cho phép Hội LHPN triển khai thí điểm bảo hiểm vi mô tại Công văn số 1981/VPCP-KTTH. Hiện nay, Hội LHPN cung cấp bảo hiểm vi mô tại 12 tỉnh, thành phố, với 18 chi nhánh và 40 phòng giao dịch, cung cấp 2 sản phẩm bảo hiểm: Tương trợ vốn vay; tương trợ y tế và nhân thọ đến 100% các thành viên vay vốn của TYM.
Nhìn chung, bảo hiểm vi mô tại Việt Nam vẫn còn chưa phổ biến, người dân, nhất là những đối tượng có thu nhập thấp, người nghèo; nông dân những đối tượng dễ bị tổn thương về tài chính trong xã hội chưa tiếp cận được nhiều tới dịch vụ tài chính thiết yếu nhằm đảm bảo những rủi ro và tài chính của các đối tượng trong xã hội. Nguyên nhân chủ yếu do các yếu tố sau:
- Nhận thức của người dân về bảo hiểm còn hạn chế đặc biệt những người có thu nhập thấp cho rằng không cần hoặc chưa cần thiết. Hơn nữa, bộ phận chủ yếu hướng đến của sản phẩm bảo hiểm vi mô thường ở vùng nông thôn hoặc vùng sâu vùng xa khó tiếp cận. Chi phí cho triển khai bảo hiểm vi mô thường lớn hơn đối với sản phẩm bảo hiểm thông thường, nhưng rủi ro nhiều hơn (đặc biệt là BHNN).
- Đa số doanh nghiệp đang kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam chưa muốn cung cấp các sản phẩm bảo hiểm vi mô. Bởi vì, không chỉ phải thay đổi một phần chiến lược kinh doanh, mà các doanh nghiệp bảo hiểm còn phải thay đổi sản phẩm theo hướng đơn giản và cắt giảm chi phí cho phù hợp với đối tượng khách hàng là người có thu nhập thấp. Trong khi đó, thị trường bảo hiểm dành cho những đối tượng thượng lưu và trung lưu dễ thâm nhập và còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác hết.
- Việc xây dựng mô hình thu phí bảo hiểm sao cho hiệu quả, đơn giản để duy trì và phát triển loại hình bảo hiểm này là một trở ngại lớn, bởi phải tính toán chi phí hợp lý cho người đi thu phí, cũng như trở ngại trong việc thu phí từ những người có thu nhập mang tính thời vụ. Đây là mâu thuẫn chủ yếu mà các doanh nghiệp bảo hiểm vấp phải khi triển khai sản phẩm này.
- Bên cạnh đó, việc tìm ra một kênh phân phối thực sự hiệu quả để bán sản phẩm bảo hiểm vi mô tới tận tay người dân nông thôn đang là bài toán khó đối với các doanh nghiệp bảo hiểm. Hiện nay, việc bán sản phẩm bảo hiểm vi mô không thông qua đại lý, mà chỉ thông qua các hội, đoàn thể nên công tác thu phí hàng tháng cũng là một vấn đề nan giải. Địa bàn nông thôn không giống như thành phố, người dân sống ở các địa hình khác nhau nên việc tiếp cận được họ để giới thiệu sản phẩm và ký hợp đồng đã khó, thu tiền phí lại càng khó khăn hơn. Việc cung cấp sản phẩm là một trong những hoạt động chiếm nhiều chi phí nhất khi triển khai sản phẩm mới.
Thậm chí, một nhà cung cấp bảo hiểm vi mô có thể tiêu tốn tới 90% tổng số phí thu được cho việc cung cấp sản phẩm và thu phí trong năm đầu tiên. Hơn nữa, dịch bệnh Covid-19 đã gây ảnh hưởng nặng nề lên thị trường lao động.
Báo cáo tác động của đại dịch Covid-19 đến việc làm cho thấy, trong quý I/2021, Việt Nam có 9,1 triệu lao động từ 15 tuổi trở lên chịu ảnh hưởng dịch; 540.000 người mất việc; 2,8 triệu người phải tạm nghỉ, tạm ngừng sản xuất kinh doanh; 3,1 triệu người cho biết họ bị cắt giảm giờ làm hoặc buộc phải nghỉ việc, nghỉ luân phiên; có 6,5 triệu người bị giảm thu nhập.
Xét theo khu vực kinh tế, khu vực ít chịu tác động nhất của đại dịch Covid-19 là nông, lâm và thủy sản nhưng cũng có tới 7,5% lao động bị ảnh hưởng; khu vực công nghiệp và xây dựng có 16,5% lao động bị ảnh hưởng và khu vực dịch vụ có tới 20,4% lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Điều này khiến cho việc triển khai bảo hiểm vi mô ngày càng trở nên khó khăn hơn.
Giải pháp thúc đẩy phát triển bảo hiểm vi mô tại Việt Nam
Để phát triển bảo hiểm vi mô, góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện ở Việt Nam, thời gian tới, cần tập trung vào các giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, thiết kế các sản phẩm bảo hiểm vi mô đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với nhận thức và trình độ của người có thu nhập thấp. Thủ tục tham gia bảo hiểm và bồi thường cũng phải đơn giản, nhanh chóng. Trước mắt, các doanh nghiệp bảo hiểm nên triển khai ở một số lĩnh vực thiết thực và có nhu cầu lớn đối với người có thu nhập thấp. Cần tập trung chủ yếu vào các sản phẩm bảo hiểm tai nạn, thương tật; bảo hiểm cho các khoản vay tín dụng và bảo hiểm nông nghiệp.
Trong giai đoạn đầu, các nhà cung cấp dịch vụ tập trung vào các sản phẩm bảo hiểm tai nạn con người do tính chất đơn giản và dễ quản lý của sản phẩm, dần dần các sản phẩm bảo hiểm chi phí y tế, bảo hiểm tài sản được phát triển nhưng theo hướng xác định số tiền bảo hiểm thấp, áp dụng nguyên tắc trả tiền khoán để đơn giản hóa quá trình quản lý sản phẩm và chi phí.
Thứ hai, thiết lập kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm vi mô. Tại các nước như: Indonesia, Ấn Độ, Philippines kênh phân phối hiệu quả vẫn chủ yếu tập chung vào mô hình đối tác - đại lý hoặc hội tương hỗ cung cấp sản phẩm, đồng thời có sự hỗ trợ của phía Chính phủ trong việc nhận tái bảo hiểm đối với những sản phẩm bảo hiểm mang tính chất tích tụ rủi ro. Đối tác của các nhà cung cấp dịch vụ tập trung vào các tổ chức tài chính vi mô, các tổ chức tín dụng, các hội đoàn thể - những tổ chức có thể dễ dàng tiếp cận và thường xuyên trao đổi với khách hàng của bảo hiểm vi mô
Thứ ba, quản lý chi phí hoạt động thấp, đặc biệt cần sử dụng hệ thống phân phối, hệ thống thanh toán sẵn có để tiết kiệm chi phí hoạt động. Mô hình triển khai phù hợp, cần thực hiện quản lý chặt chẽ, nâng dần tính chuyên nghiệp trong hoạt động nhằm đảm bảo sự hoạt động bền vững, đồng thời cần có khung pháp lý về hoạt động bảo hiểm cho người có thu nhập thấp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm cần thực hiện tốt việc truyền thông, quảng bá sản phẩm bảo hiểm vi mô.
Thứ tư, việc bảo hiểm cho người có thu nhập thấp có thể được thực hiện tốt hơn khi được tài trợ từ các tổ chức và cá nhân, lồng ghép với các chính sách của Nhà nước (như cho vay xóa đói giảm nghèo, cho vay ưu đãi, đào tạo nghề...), phối hợp với sự hoạt động của các tổ chức chính trị, xã hội. Cần huy động được tất cả các bên có liên quan cùng hợp tác với nhau triển khai bảo hiểm vi mô. Quan hệ đối tác chặt chẽ giữa các tổ chức tài chính, các tổ chức phi chính phủ, các nhóm tự lực tại địa phương và các cơ quan điều tiết đem lại rất nhiều lợi ích trong ngành công nghiệp bảo hiểm vi mô.
Thứ năm, ngoài việc xác định mô hình triển khai phù hợp, để bảo hiểm cho người có thu nhập thấp hoạt động hiệu quả, cần xây dựng một khung pháp lý đồng bộ và phù hợp, đặc biệt là trong truyền thông, giám sát quỹ dự phòng, biên khả năng thanh toán và đầu tư. Bên cạnh đó, Hiệp hội Bảo hiểm và các doanh nghiệp bảo hiểm cần trợ giúp tích cực về mặt nghiệp vụ và công nghệ quản lý trong hoạt động bảo hiểm cho người thu nhập thấp.
Cần triển khai các chính sách hỗ trợ triển khai bảo hiểm vi mô như: Miễn giảm thuế đối với một số sản phẩm hay bổ sung các nội dung liên quan đến bảo hiểm vi mô vào Luật Luật Kinh doanh bảo hiểm. Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác giáo dục tuyên truyền bảo hiểm vi mô đến các chủ thể trong xã hội nhằm đảm bảo sự am hiểu nhất định về các sản phẩm bảo hiểm vi mô đến các chủ thể, nhất là những chủ thể cần hướng đến.
Tài chính toàn diện không chỉ giới hạn trong việc cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng mà bao gồm cả nâng cao hiểu biết về tài chính cho người dân và bảo vệ người tiêu dùng. Vì vậy, phát triển bảo hiểm vi mô, hướng đến các chủ thể trong xã hội, chú trọng đến người nghèo, người có thu nhập thấp và những người yếu thế trong xã hội được xem là giải pháp quan trọng nhằm bảo vệ người dân khỏi những rủi ro, bù đắp về mặt tài chính.
Tài liệu tham khảo:
1. Dự thảo chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 lần thứ 4, 2018;
2. Đỗ Thị Diên (2017), Kinh nghiệm triển khai bảo hiểm vi mô tại Philippine, Nhật Bản và bài học đối với Việt Nam, Tạp chí Công Thương số 6, 5/2017;
3. Đề xuất cơ sở pháp lý cho Bảo hiểm vi mô phi lợi nhuận, Thời báo Tài chính Việt Nam Online http://www.thoibaotaichinhvietnam.vn , 13/7/2020;
4. Craig Churchill & Michal Matul (2012), Bảo vệ người nghèo: Tổng hợp bảo hiểm vi mô tập II (Protecting the poor: A Microinsurance Compendium Volume II), Công ty Tái Bảo hiểm Munich Re và ILO, ILO, Đức;
5. Craig Churchill (2007), Bảo vệ người nghèo: Tổng hợp bảo hiểm vi mô (Protecting the poor: A microinsurance compendium), Munich Re and ILO, ILO, Germany;
6. Jim Roth, Micheal J.McCord và Dominic Liber (2007), Toàn cảnh bảo hiểm vi mô tại 100 nước nghèo nhất thế giới (The Landscape of Microinsurance in the World’s 100 Poorest Countries), Trung tâm Bảo hiểm vi mô, LLC, trang 1.
7. Các website: mof.gov.vn, sbv.gov.vn, tinnhanhchungkhoan.vn, 123doc.org…
(*) ThS. Vũ Thị Yến Anh - Học viện Ngân hàng.
(**) Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 6/2021.