Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam và một số vấn đề đặt ra
Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XII) ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 về “Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, là một bước tiến mới, tạo động lực thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân và toàn bộ nền kinh tế, thể hiện sự tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế của Đảng để phù hợp với thực tiễn phát triển của nền kinh tế sau 30 năm đổi mới.
Chủ trương, chính sách đã có, vấn đề quan tâm hiện nay là làm thế nào để kinh tế tư nhân vượt qua các rào cản, phát huy được hết tiềm năng để thực sự đóng vai trò là động lực quan trọng của nền kinh tế?
Vai trò của khu vực tư nhân trong nền kinh tế
Kinh tế tư nhân (KTTN) tồn tại dưới các hình thức như: Doanh nghiệp tư nhân (DNTN), công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và hộ kinh doanh cá thể. Quan niệm KTTN là “một động lực quan trọng của nền kinh tế” tại Đại hội XII cho thấy, bước đột phá về nhận thức của Đảng ta so với giai đoạn trước, khi chỉ coi KTTN là một trong những động lực của nền kinh tế. Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 về phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Nghị quyết đề ra mục tiêu phát triển KTTN trở thành động lực quan trọng trong kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển KTTN nhanh, bền vững với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỷ trọng trong tổng sản phẩm nội địa (GDP). Nghị quyết là một bước tiến mới, tạo động lực thúc đẩy phát triển khu vực KTTN và toàn bộ nền kinh tế, đồng thời, thể hiện sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng để phù hợp với thực tiễn phát triển của nền kinh tế sau 30 năm đổi mới.
Trong những năm qua, khu vực KTTN đã góp phần quan trọng trong sự phát triển năng động của nền kinh tế, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập của người dân, đã mạnh dạn đột phá và đi đầu trong nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mới. Do đó, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khu vực KTTN phát triển cũng chính là tạo điều kiện để giải phóng các nguồn lực phát triển trong xã hội, để nền KTTT định hướng XHCN phát huy tối đa các tiềm năng to lớn của nó.
Việt Nam hiện có khoảng 600 nghìn DN, trong đó có trên 500 nghìn DN tư nhân (DNTN). Trong số này có tới hơn 96% là DN nhỏ và vừa, 2% DN quy mô vừa và 2% DN lớn. DNTN tạo ra khoảng 1,2 triệu việc làm, đóng góp hơn 40% GDP mỗi năm. Phát triển KTTN là nhân tố không chỉ bảo đảm cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn tham gia vào giải quyết hàng loạt những vấn đề xã hội như: Tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực… KTTN liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng từ 40-43%; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động. Đóng góp của khu vực KTTN trong cơ cấu GDP luôn ở mức trên 43% GDP (so với khu vực kinh tế nhà nước 28,9% GDP và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 18% GDP). Thương hiệu của khu vực tư nhân đã không chỉ được ghi nhận ở thị trường trong nước mà cả ở thị trường khu vực và quốc tế; đã xuất hiện những tập đoàn KTTN có quy mô lớn cả về vốn và công nghệ cao.
Một số tồn tại, hạn chế
KTTN ở nước ta ngày càng phát triển và đóng vai trò quan trọng, tuy nhiên thực tế cho thấy, tốc độ tăng trưởng của KTTN đang có xu hướng giảm; KTTN chưa đáp ứng được vai trò động lực quan trọng của nền kinh tế; vẫn còn một số tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến sự phát triển của KTTN ở nước ta hiện nay, cụ thể:
Một là, môi trường pháp lý đối với khu vực KTTN chưa hoàn thiện, nhiều quy định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, thiếu nhất quán và chồng chéo. Những năm qua, môi trường kinh doanh ở nước ta đã được cải thiện nhiều, song vẫn chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực KTTN phát triển mạnh...
Hai là, các DNTN còn bị đối xử chưa công bằng so với các đối tượng DN khác. Một số chính sách quy định chỉ đề cập đến DN nhà nước (DNNN) mà chưa đề cập đến DNTN. Nhiều DN phải trả các chi phí “không chính thức” để giải quyết công việc… Những bất cập này càng khiến cho khu vực KTTN đã nhỏ lại kém phát triển. Vì vậy, để KTTN có điều kiện phát triển, cần tập trung giải quyết vấn đề bình đẳng thật sự giữa các chủ thể kinh doanh, giữa KTTN và DNNN.
Ba là, năng lực sản xuất công nghiệp của khu vực KTTN còn yếu, mới chỉ ở giai đoạn đầu của thời kỳ phát triển. Phần lớn sản xuất công nghiệp của các DNTN là gia công lắp ráp, sử dụng máy móc, thiết bị và nguyên liệu nhập khẩu. Các công đoạn sản xuất đưa lại giá trị gia tăng cao như thiết kế, tạo kiểu dáng, marketing... phần lớn được thực hiện bởi đối tác nước ngoài. Sự phân tầng trình độ công nghệ đang diễn ra trong từng ngành và trong nhiều DN; công nghệ lạc hậu, trung bình và tiên tiến cùng đan xen tồn tại; công nghệ tiên tiến, hiện đại chỉ tập trung ở một số ít DNTN, ở một số ít lĩnh vực. Do trình độ công nghệ thấp, các DNTN không có khả năng kết nối cũng như tham gia ngành công nghiệp hỗ trợ cho các DN lớn, nhất là không thể tận dụng được hiệu ứng lan tỏa từ các DN FDI đang tăng trưởng nhanh.
Bốn là, các DNTN phần lớn vẫn hoạt động ở thị trường trong nước, rất ít DNTN vươn được ra thị trường nước ngoài. Ngay cả ở thị trường trong nước, dưới sức ép cạnh tranh gay gắt, các DNTN lớn có xu hướng rút khỏi các ngành sản xuất công nghiệp, nhường lại sân chơi cho các DN nước ngoài. Sự rút lui này cũng diễn ra trong một số lĩnh vực dịch vụ như phân phối, bán lẻ được ưu tiên và có nhiều tiềm năng của nền kinh tế.
Năm là, thiếu thị trường, thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh là trở ngại lớn nhất đối với các DNTN. Việc giải quyết những rào cản về thủ tục hành chính là bắt buộc, nhưng để DN có thể phát triển thì vấn đề “thị trường”, vấn đề đầu ra và hình thành nơi trao đổi buôn bán, hình thành trục liên kết... giúp các DN phát triển đột phá là rất quan trọng. Để DNTN là động lực phát triển kinh tế cần thúc đẩy hoàn thiện thể chế thị trường đầy đủ, bởi thị trường là cơ hội tiếp cận kinh doanh, cơ hội tiếp cận đất đai, tiếp cận thông tin, chính sách, quy hoạch...là sự liên kết giữa các DN nhỏ với các tập đoàn lớn để tiêu thụ sản phẩm, tạo ra chuỗi giá trị.
Để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững
Việt Nam đặt mục tiêu phấn đấu có 1 triệu DN (năm 2020), hơn 1,5 triệu DN (năm 2025) và có ít nhất 2 triệu DN (năm 2030). Tốc độ tăng trưởng của KTTN cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế; Phấn đấu tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực KTTN đạt khoảng 50% GDP (năm 2020), khoảng 55% GDP (năm 2025) và 60 - 65% GDP (năm 2030). Để đạt được mục tiêu đặt ra cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực KTTN trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế, bài viết khuyến nghị một số giải pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý tạo điều kiện thuận lợi và bình đẳng hơn cho KTTN phát triển.
Theo đó, Nhà nước cần tăng cường nâng cao năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, an toàn cho KTTN phát triển lành mạnh, đúng định hướng. Tăng cường hiệu quả công tác giám sát, kiểm tra, trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương các cấp đối với việc chấp hành chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển KTTN. Xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Tăng cường cơ chế đối thoại có hiệu quả giữa cơ quan quản lý nhà nước với DN nhằm nắm bắt và xử lý kịp thời các vướng mắc liên quan đến phát triển KTTN.
Luật DN đã tạo ra khuôn khổ pháp lý tương đối thuận lợi để DN gia nhập thị trường, song còn thiếu những cơ sở pháp lý đồng bộ nhằm điều chỉnh hoạt động trên thị trường, cụ thể là điều chỉnh các quan hệ hợp đồng, điều chỉnh việc rút ra khỏi thị trường thông qua phá sản giải thể. Thực tế cho thấy, chỉ khi chúng ta chấp nhận DN phá sản là hiện tượng bình thường được luật hoá thì KTTN mới có thể phát triển đúng bản chất của nó. Theo đó, vấn đề thiết yếu đối với khu vực KTTN hiện nay là xây dựng cơ sở pháp lý cho việc hình thành, thực hiện, theo dõi, thanh lý, giải quyết tranh chấp các hợp đồng kinh tế và xử lý các vấn đề kinh tế - tài chính khi DN phá sản hay giải thể theo quy luật thị trường.
Việt Nam đặt mục tiêu phấn đấu có 1 triệu DN (năm 2020), hơn 1,5 triệu DN (năm 2025) và có ít nhất 2 triệu DN (năm 2030). Tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Phấn đấu tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP để đạt khoảng 50% GDP (năm 2020), khoảng 55% GDP (năm 2025) và 60 - 65% GDP (năm 2030).
Thứ hai, có chính sách khuyến khích, hỗ trợ KTTN đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ. Nhà nước cần tăng cường khuyến khích, hỗ trợ KTTN đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển; chuyển giao công nghệ tiên tiến. Bảo đảm thực thi hiệu quả pháp luật về sở hữu trí tuệ. Phát triển các quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ. Áp dụng chính sách thuế, hỗ trợ tài chính, tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi phù hợp với hoạt động nghiên cứu, đổi mới, hiện đại hóa công nghệ. Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề, nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng đủ nhu cầu số lượng và chất lượng nhân lực cho phát triển KTTN. Tăng cường hợp tác, liên kết giữa DN và cơ sở đào tạo. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ doanh nhân có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng quản lý hiện đại, đạo đức kinh doanh và tinh thần trách nhiệm cao.
Thứ ba, các DNTN cần chủ động xây dựng chiến lược quy hoạch hợp lý trên cơ sở hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý, đẩy mạnh hoạt động marketing, thực hành các biện pháp giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh cùng nhiều biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khác. Để chiến lược kinh doanh mang tính khả thi cao, các DNTN cần nghiên cứu kỹ mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, chiến lược phát triển ngành, nghề; đồng thời, nắm bắt khả năng của mình để xây dựng chiến lược cho tương lai. Mỗi DN cần xây dựng chiến lược riêng, phù hợp với khả năng về vốn, năng lực nhân sự, mục tiêu phát triển, ngành hàng tham gia kinh doanh... Để hoạt động kinh doanh mang lại hiệu quả như mong muốn, các DNTN cần coi trọng yếu tố công nghệ trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới, với tự do hóa mạnh mẽ cùng những chuẩn mực mới tạo nhiều cơ hội cho việc mở rộng thị trường, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Các DNTN cần nghiên cứu kỹ và chuẩn bị một lộ trình thích hợp, không loại trừ việc liên doanh, liên kết với các DN khác cũng như tranh thủ các cơ hội từ phía Nhà nước.
Thứ tư, hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động.
Bên cạnh sự quan tâm khuyến khích thích đáng của Đảng và Nhà nước, thực tế cho thấy, vai trò của KTTN phần lớn do khu vực KTTN quyết định với nỗ lực nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh thông qua tăng cường tiềm lực tài chính, trình độ quản lý, trang bị máy móc thiết bị công nghệ hiện đại, đào tạo và sử dụng đội ngũ lao động. Các DNTN phải không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý, sắp xếp, sử dụng các nguồn lực một cách hợp lý; hoàn thiện phương thức quản lý và cơ cấu tổ chức; nâng cao trình độ cán bộ, công nhân viên, phát triển văn hóa DN lành mạnh. Các DN, các hộ kinh doanh cần vượt qua cung cách hoạt động thiếu bài bản, quản lý phần nhiều dựa vào kinh nghiệm, chạy theo thị trường, thiếu phân tích khoa học. Việc hoàn thiện tổ chức bộ máy, phương thức quản lý cũng như đào tạo cán bộ cần được đưa vào kế hoạch theo một lộ trình xác định.
Tài liệu tham khảo:
- Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, phần I, tr.21, 20, 53, 41;
- Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 108;
- Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XII) về “phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”;
- Nguyễn Hồng Sơn: Phát triển khu vực KTTN ở Việt Nam: Những rào cản và giải pháp, Tạp chí Kinh tế và Quản lý, số 22, tháng 6- 2017;
- Vũ Đình Ánh, Vấn đề phát triển KTTN ở Việt Nam, báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam;
- Đậu Tuấn Anh (2016), DN nhỏ và vừa tư nhân Việt Nam kinh doanh trong chật vật, Diễn đành Kinh tế Việt Nam 2016, Hà Nội.