Quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II tại ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế tất yếu và đang diễn ra ngày càng sâu rộng cả về nội dung và quy mô trên nhiều lĩnh vực. Ngành Ngân hàng cũng không nằm ngoài xu thế đó. Để hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam tham gia tốt hơn vào quá trình quốc tế hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh trong tiến trình hội nhập, lành mạnh hóa tài chính theo chuẩn mực quốc tế, các ngân hàng thương mại cần phải tuân thủ một số điều ước quốc tế trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng. Một trong những điều ước quốc tế được các nhà quản trị ngân hàng đặc biệt quan tâm chính là Hiệp ước quốc tế về giám sát hoạt động ngân hàng – Hiệp ước Basel.
Là một trong số những ngân hàng thương mại (NHTM) lớn với hệ thống mạng lưới rộng khắp, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) luôn đi tiên phong trong việc ứng dụng khoa học công nghệ vào hiện đại hóa ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu quản trị và kinh doanh ngày càng cao và phức tạp. Việc áp dụng các chuẩn mực này không chỉ đáp ứng yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) theo đề án tái cơ cấu ngành Ngân hàng Việt Nam mà còn là điều kiện tiên quyết cho công cuộc hội nhập và mở rộng tầm ảnh hưởng của BIDV trong ngành Ngân hàng tài chính toàn cầu.
Thực trạng rủi ro tín dụng tại BIDV
Cơ cấu tín dụng theo thời hạn
Kỳ hạn các khoản vay không chỉ ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản mà còn ảnh hưởng đến an toàn tín dụng của mỗi ngân hàng. Để đảm bảo an toàn tín dụng và khả năng thanh khoản, BIDV luôn chú trọng việc phát triển cân đối các khoản vay theo các kỳ hạn khác nhau. Các kỳ hạn cho vay được chia thành 03 loại: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Những năm gần đây, cơ cấu cho vay theo kỳ hạn của BIDV có sự thay đổi. Cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng trung bình trên 50% và có xu hướng tăng, cho vay trung hạn bình quân khoảng 15% và có xu hướng tăng, cho vay dài hạn bình quân 40%. Trong điều kiện nền kinh tế khó khăn như hiện nay, các doanh nghiệp rất cần vốn để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, BIDV luôn tăng cường và đẩy mạnh phát triển các sản phẩm ưu đãi cho vay vốn lưu động, cho vay xuất khẩu để hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Theo đó, quy mô tín dụng tăng trưởng, đồng thời đảm bảo các chỉ tiêu cơ cấu tín dụng được duy trì cân đối và ổn định.
Nợ quá hạn và nợ xấu
Theo dõi bảng số liệu về cơ cấu tín dụng theo nhóm nợ của BIDV trong giai đoạn 2013 – 2016 có thể thấy: Tỷ lệ nợ đủ tiêu chuẩn luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ của BIDV. Từ năm 2013 đến năm 2016, tỷ lệ nợ đủ tiêu chuẩn đều được duy trì ở mức trên 90% trên tổng dư nợ của BIDV. Tỷ lệ nợ xấu của BIDV luôn nằm trong giới hạn cho phép (dưới 2%) và thấp hơn so với toàn hệ thống ngân hàng. Năm 2015, tỷ lệ nợ xấu toàn Ngành là 2,9% thì BIDV là 0,8%, năm 2016 tỷ lệ nợ xấu toàn ngành Ngân hàng giảm nhẹ là 2,8% thì tỷ lệ nợ xấu của BIDV ở mức 0,9% và luôn nằm ở trong giới hạn cho phép (dưới 2%). Tuy nhiên, nợ xấu của BIDV có chiều hướng gia tăng. Đây là tín hiệu đáng lo ngại trong vấn đề quản trị rủi ro tín dụng (RRTD) của ngân hàng trong vấn đề kiểm soát nguồn tín dụng cho vay.
Trích lập dự phòng và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng
Thống kê của BIDV cho thấy, số dư trích lập dự phòng RRTD cuối kỳ tăng dần qua các năm, tương ứng với sự tăng lên của số dự phòng trích lập trong năm. Khi tổng dư nợ tăng lên, ngân hàng cũng phải đối mặt với việc số dự phòng trích lập trong kỳ tăng tương ứng, bao gồm cả dự phòng chung và dự phòng riêng đối với từng nhóm nợ.
Hàng năm, con số dự phòng RRTD được dùng để xử lý rủi ro có xu hướng giảm, tỷ lệ dự phòng được dùng để xử lý rủi ro/Tổng dư nợ không có biến động mạnh, cá biệt năm 2014 tỷ lệ này là 0,9%, ngoài ra đều ở mức khá thấp và tỷ lệ này có xu hướng giảm.
Đánh giá rủi ro tín dụng theo Basel II tại BIDV
Về công tác nhận diện rủi ro tín dụng
Hội đồng quản trị và Ban điều hành BIDV đã ban hành nhiều quy trình, quy định về cấp tín dụng đối với từng đối tượng khách hàng, trong đó bao gồm những quy định, hướng dẫn thẩm định khách hàng, góp phần hỗ trợ cán bộ tín dụng trong công tác tiếp cận, thẩm định khách hàng và nhận diện RRTD. Năm 2017, BIDV tiếp tục tích cực triển khai và hoàn thiện dự án trang bị giải pháp quản lý khoản vay nhằm hỗ trợ công tác đề xuất, thẩm định và phê duyệt tín dụng toàn hệ thống. Sau khi dự án được triển khai sẽ giúp quản lý thông tin tập trung, rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ tín dụng, tăng hiệu quả và chất lượng xử lý hồ sơ, nâng cao tính minh bạch, an toàn hệ thống ngân hàng, góp phần phục vụ triển khai Basel II theo quy định của NHNN.
Về công tác đo lường rủi ro tín dụng
Với mục tiêu chiến lược là ngân hàng số 1 tại Việt Nam, BIDV đã luôn tiên phong áp dụng các thông lệ quốc tế tốt nhất để quản trị hoạt động kinh doanh, đặc biệt là quản trị RRTD. Năm 2016, BIDV đã hoàn thành và đưa vào triển khai hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ mới cùng chương trình phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, giúp đáp ứng tốt hơn đối với các yêu cầu về việc phân loại nợ và trích lập dự phòng được quy định theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN của NHNN, đồng thời, tạo bước quan trọng trong việc thu thập các dữ liệu cần thiết để tiến tới xây dựng mô hình định lượng RRTD theo tiêu chuẩn quốc tế (Basel II).
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của BIDV đã đáp ứng các điều kiện về xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của NHNN. Đây là một bước đi mới, nhằm tiếp cận từng bước với việc đo lường và tính toán rủi ro theo Hiệp ước Basel II (theo phương pháp tiếp cận xếp hạng nội bộ). Theo đó, khách hàng được chấm điểm và xếp hạng tín dụng được chia thành 3 nhóm: Khách hàng doanh nghiệp, khách hàng cá nhân và khách hàng định chế tài chính. Trong đó, phần mềm chấm điểm tín dụng khách hàng doanh nghiệp là cốt lõi.
Ngoài ra, BIDV hiện đang sử dụng kết quả chấm điểm là một trong những tiêu chí hàng đầu để thẩm định, đánh giá khách hàng và là căn cứ phân cấp thẩm quyền phán quyết tín dụng và xác định mức cấp tín dụng đối với khách hàng. Đối với mỗi hạng khách hàng khác nhau, chi nhánh có mức ủy quyền phê duyệt tín dụng khác nhau. Đồng thời, mức cấp tín dụng và tỷ lệ cấp tín dụng tối đa so với tài sản đảm bảo đối với mỗi khách hàng cũng được xác định dựa trên hạng tín dụng của khách hàng đó.
Về công tác kiểm soát rủi ro tín dụng
Xây dựng môi trường RRTD thích hợp và quy trình cấp tín dụng lành mạnh: Những năm qua, BIDV đã xây dựng hệ thống chế độ, chính sách tín dụng khá đồng bộ trên cơ sở nghiên cứu và đề xuất của các phòng, ban nghiệp vụ và sự tham mưu của các đơn vị, chuyên gia tư vấn, được phê duyệt bởi Ban lãnh đạo và HĐQT.
Định hướng chiến lược và kế hoạch phát triển tín dụng được thể hiện cụ thể trong Chiến lược phát triển BIDV đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 và kế hoạch tín dụng hàng năm được HĐQT thông qua. Chính sách tín dụng được ban hành đồng bộ, bao gồm Quy định cấp giới hạn tín dụng; Quy trình cấp tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp và khách hàng cá nhân; Quy chế Hội đồng tín dụng; Quy định bảo đảm tiền vay; Quy định phân loại nợ và trích lập dự phòng…
Cùng với các chính sách, quy định tín dụng được ban hành là các văn bản hướng dẫn được cập nhật đầy đủ và liên tục trên cẩm nang tín dụng nội bộ ngân hàng để các cán bộ tại chi nhánh và trụ sở chính có thể dễ dàng truy cập, tìm hiểu, trao đổi, bàn luận, được hướng dẫn và giải đáp các thắc mắc, từ đó áp dụng các chính sách tín dụng vào thực tế hoạt động nghiệp vụ tại đơn vị một cách chính xác và hiệu quả. Ngoài những quy định khung tín dụng, BIDV còn thường xuyên ban hành các văn bản chỉ đạo hoạt động tín dụng, cảnh báo RRTD trong từng thời kỳ để kịp thời định hướng hoạt động tín dụng của toàn hệ thống trong một số trường hợp có biến động thị trường bất lợi hoặc phát hiện những yếu tố rủi ro cần cảnh báo.
Nhìn chung, quy trình cấp tín dụng của BIDV cho đến nay đã được thể chế hóa tương đối đầy đủ, chặt chẽ, đồng bộ, phù hợp với thực trạng khách hàng cũng như cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Theo đó, các quy định, chính sách tín dụng đã bao gồm khá toàn diện các nội dung cần thiết mà các ngân hàng cần thực hiện trong quá trình phê duyệt tín dụng.
Triển khai thực hiện mô hình cấp tín dụng và quản lý RRTD tập trung: Một trong những nguyên tắc quản lý RRTD theo Hiệp ước Basel II nhằm thực hiện quá trình cấp tín dụng lành mạnh trên nguyên tắc phân tách bộ máy cấp tín dụng theo các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín dụng và bộ phận phê duyệt tín dụng.
Trên giác độ quản lý RRTD có thể thấy, mô hình tổ chức cấp tín dụng của BIDV có những bước tiến đáng kể. Từ mô hình cấp tín dụng phân tán trên cơ sở ủy quyền phán quyết tín dụng cho các chi nhánh ở mức khá cao, BIDV đã chuyển đổi mô hình tổ chức bộ máy tín dụng trong toàn hệ thống theo mô hình cấp tín dụng tập trung, đảm bảo nguyên tắc phân tách độc lập giữa bộ phận quan hệ khách hàng với bộ phận thẩm định và bộ phận phê duyệt, quyết định cấp tín dụng; quản lý thống nhất từ cấp trụ sở chính xuống chi nhánh, giảm thấp mức ủy quyền phán quyết đối với các chi nhánh. Đây là bước đi quan trọng để BIDV tiệm cận với mô hình hoạt động ngân hàng chuẩn mực, phù hợp thông lệ quốc tế, tạo dựng một khung quản lý rủi ro vững chắc, cân bằng giữa lợi nhuận dự kiến và rủi ro có thể chấp nhận được
Thành lập và phát huy vai trò của bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ: Bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ được thành lập và luôn tồn tại song song với các hoạt động cấp tín dụng tại ngân hàng. Hiện nay, mô hình kiểm tra, kiểm soát nội bộ của BIDV được thiết lập theo chiều dọc. Tại trụ sở chính, phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ thực hiện tham mưu, giúp việc Ban lãnh đạo về công tác giám sát, kiểm tra, kiểm soát việc tuân thủ quy định của pháp luật và hệ thống quy chế, quy trình nghiệp vụ, quy định nội bộ nhằm phát hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp thời các tồn tại trong mọi hoạt động nghiệp vụ của các phòng, ban trụ sở chính và các chi nhánh. Đây cũng là bộ phận đầu mối thực hiện thu thập các biên bản kiểm tra, kiểm soát của các bộ phận cấp dưới để tổng hợp và báo cáo Ban lãnh đạo. Phòng Kiểm tra kiểm soát nội bộ khu vực là một bộ phận thuộc Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ tại Trụ sở chính thực hiện các chức năng kiểm tra giám sát tại các đơn vị trong hệ thống thuộc khu vực phụ trách.
Như vậy, mô hình kiểm tra, kiểm soát nội bộ tại BIDV khá chặt chẽ, với 3 vòng kiểm soát, từ nội bộ chi nhánh đến các cấp cao hơn. Điều này giúp cho công tác quản lý RRTD được thực hiện một cách toàn diện hơn. Thực tế cho thấy, hoạt động của các bộ phận kiểm tra trong thời gian qua khá hiệu quả, đã phát hiện nhiều trường hợp vi phạm nghiêm trọng của các đơn vị, các vi phạm có khả năng mất vốn, các rủi ro tiềm ẩn, để từ đó có biện pháp cảnh báo và xử lý tín dụng kịp thời để hạn chế RRTD.
Về công tác dự phòng và xử lý rủi ro tín dụng
Năm 2016, BIDV đã hoàn thành và đưa vào triển khai hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ mới cùng chương trình phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, qua đó đáp ứng tốt hơn đối với các yêu cầu về việc phân loại nợ và trích lập dự phòng được quy định theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN của NHNN, đồng thời, tạo bước quan trọng trong việc thu thập các dữ liệu cần thiết để tiến tới xây dựng mô hình định lượng RRTD theo tiêu chuẩn quốc tế (Basel II).
Ngoài ra, BIDV đã từng bước áp dụng các kỹ thuật giảm thiểu RRTD đối với khách hàng như: Thế chấp tài sản bảo đảm, bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với việc nhận bảo lãnh, BIDV đánh giá phạm vi bảo lãnh trong mối quan hệ với mức độ tín nhiệm, năng lực pháp lý và tiềm lực của bên bảo lãnh. Chỉ những bảo lãnh chắc chắn mới được chấp nhận để bảo đảm cho khoản tín dụng. Các bên liên quan cần có các quy định để đảm bảo hiệu lực thực thi của các hợp đồng bảo lãnh; Các tài sản bảo đảm cũng thường xuyên được rà soát, đánh giá, định giá lại giá trị để xác định mức cấp tín dụng phù hợp và yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản cũng như có ứng xử tín dụng thích hợp. Ngoài ra, BIDV còn thành lập Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản để tiếp nhận tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh; định giá tài sản đảm bảo và hỗ trợ ngân hàng trong công tác phát mại và bán đấu giá tài sản.
Tài liệu tham khảo:
1. Các rủi ro bên trong và bên ngoài (2016) investor.bidv.com.vn/Upload/AnnualReport/2016/BIDV/risks.pdf;
2. BIDV – Ngân hàng đi đầu áp dụng mô hình quản trị tiên tiến (2017): https://baomoi.com/bidv-ngan-hang-di-dau-ap-dung-mo-hinh-quan-tri-tien-tien/c/22857155.epi;
4. Kim, D. and A. M. Santomero. (1988). Risk in banking and capital regulation. Journal of Finance, 43, 1219-1233;
5. Avery, R. B. and A. B. Berger. 1991. Riskbased capital and deposit insurance reform. Journal of Banking and Finance, 15 (4-5) (September), 847-74.