Sức sống “Quyền con người” của Tuyên ngôn độc lập
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc...”
Tuyên ngôn độc lập - thiên anh hùng ca của cách mạng Việt Nam, áng văn chính luận có ý nghĩa quan trọng khẳng định giá trị về tư tưởng chính trị, pháp quyền, về quyền con người và quyền dân tộc; là tảng tinh thần, vũ khí lý luận dẫn đường cho cách mạng Việt Nam đến những thắng lợi to lớn. Có thể khẳng định rằng tư tưởng xuyên suốt của Tuyên ngôn là tư tưởng về con người, quyền con người và được Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên thành quyền dân tộc chính đáng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhân vật hiếm có trong lịch sử nhân loại, một lãnh tụ lấy mong muốn của dân tộc làm ham muốn của mình, lấy nỗi lo của nhân dân làm động cơ hành động thực tiễn cho bản thân mình.
Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài, Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Điều đó cho thấy, chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề con người và giải phóng con người, coi đó là mục đích cao nhất cần phải đạt tới trong mọi hoạt động cách mạng của mình.
Người đã thâm nhập trực tiếp vào các nước phương Tây để kiểm nghiệm giá trị “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Người đã đại diện cho những người Việt Nam yêu nước, cho cả dân tộc Việt Nam trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng Việt Nam luôn khát khao trở thành “một dân tộc tiên tiến”, một dân tộc tự do, bình đẳng, hoà bình và thống nhất. Trong Tuyên ngôn độc lập, Người viết: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” và “sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập”.
Vấn đề con người, đấu tranh giành lấy quyền con người và quyền dân tộc được Nguyễn Tất Thành nung nấu từ nhiều nhân tố khác nhau. Trước hết, Người ảnh hưởng trực tiếp từ tư tưởng thương dân của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc khi cụ chủ trương “ái quốc là ái dân”, “lấy nhân dân làm hậu thuẫn cho tất cả các phong trào cải cách chính trị”. Quan niệm này của cụ Phó bảng đã ảnh hưởng rất lớn đến Nguyễn Tất Thành về lòng yêu nước và yêu thương con người, đặc biệt là sức mạnh của nhân dân đối với phong trào cách mạng. Bên cạnh đó, Người được nuôi dưỡng bởi những giá trị truyền thống nhân văn quý báu của dân tộc, đó là lòng yêu thương, quý trọng và tin tưởng vào con người, phẩm giá con người; và đặc biệt là từ thực tiễn cuộc sống bần cùng của nhân dân thuộc địa không có quyền làm người, các dân tộc bị áp bức bóc lột đến thậm tệ.
Trong khoảng thời gian học lớp đệ nhị niên trung học niên khoá 1908-1909 tại trường Quốc học, Nguyễn Tất Thành đã chứng kiến sự khốn cùng của nhân dân trong cuộc khai hoá của thực dân Pháp, Người đã tích cực tham gia phong trào chống thuế, làm thông ngôn cho đoàn biểu tình trước Toà Khâm sứ đòi những “yêu sách đúng mức” đồng thời “dấy lên tinh thần đấu tranh của đồng bào”.
Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm được lời giải cho những câu hỏi bức bách của cách mạng Việt Nam, học ở V.I. Lênin tinh thần đấu tranh bất khuất đòi quyền con người và quyền của các dân tộc thuộc địa. Người viết: “... trong lịch sử cuộc đời đau khổ và bị mất quyền của các dân tộc thuộc địa, Lênin là người sáng tạo ra cuộc đời mới, là ngọn hải đăng chỉ dẫn con đường đi tới giải phóng cho toàn thể nhân loại bị áp bức”.
Với những nền tảng cơ bản đó, đã hình thành ở Nguyễn Tất Thành những tình cảm đặc biệt về thân phận con người và nung nấu ý chí đấu tranh giành lấy độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân. Với Nguyễn Tất Thành, cứu nước không chỉ đánh đuổi quân xâm lược, giành lấy độc lập cho dân tộc, mà cứu nước là để cứu dân, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng con người, giành độc lập cho dân tộc thống nhất với giành quyền tự do, quyền con người cho nhân dân.
Từ ý chí kiên cường và trải qua biết bao thử thách của thực tiễn cuộc sống, Nguyễn Tất Thành đã củng cố vững chắc lý tưởng độc lập, tự do của mình. Trong những năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã dành nhiều thời gian để khảo sát thực tế, tìm hiểu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” được thực thi các nước “mẫu quốc” và các thuộc địa như thế nào. Người đã đi vào sào huyệt của chủ nghĩa thực dân để xem cái “hào nhoáng” của những nền “văn minh với sứ mệnh khai hoá”; Người đã dày công nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản, tư tưởng của những nhà lý luận như Rútxô, Môngtétxkiơ và các nhà tư tưởng tiến bộ khác - điều đó hoàn toàn bị ngăn cấm ở các trường học thuộc địa. Nguyễn Tất Thành đã tìm thấy ở Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp (1789) và Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776) những “quyền bất khả xâm phạm” của con người. Đây chính là cơ sở quan trọng để Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng nhân dân và dân tộc Việt Nam cũng phải được hưởng những “quyền bất khả xâm phạm” đó.
Mở đầu Tuyên ngôn, Người dẫn lời bất hủ của Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc”, và trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Có nhiều học giả cho rằng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo dùng “gậy ông đập lưng ông”, nghĩa là lợi dụng các nguyên tắc pháp lý tư sản, các khái niệm về quyền tự nhiên, quyền con người, quyền công dân... để đòi các quyền tự do dân chủ, quyền đấu tranh chống áp bức của người bản xứ. Nói vậy không có nghĩa là chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy những nguyên lý tư sản để áp đặt cho cách mạng Việt Nam, cóp nhặt những ngôn từ của tuyên ngôn tư sản để lập nên một bản tuyên ngôn cho một nước mà giai cấp vô sản vừa mới lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền. Chúng ta cần nhìn nhận một cách khoa học về sự tinh tế, sự linh hoạt trong tư duy, sự thiên tài về mặt lý luận của chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lấy “những lẽ phải không ai chối cãi được” để bảo vệ “những lẽ phải”, “những quyền chân chính” cho bất cứ ai, bất cứ dân tộc nào.
Cũng có nhiều học giả đặt ra câu hỏi vì sao chủ tịch Hồ Chí Minh lại trích hai bản Tuyên ngôn của hai quốc gia phương Tây, trong đó lại có cả nước Pháp. Việc sử dụng những trích dẫn ấy, chủ tịch Hồ Chí Minh muốn khẳng định rằng ngay cách mạng Việt Nam cũng là sự nối tiếp của con đường tiến hóa mà nhân loại đã và sẽ đi. Người cho rằng phải tôn trọng nền độc lập dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, dân tộc, đồng thời thực hiện quyền bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc với nhau.
Từ việc luận dẫn những lời bất hủ của hai bản Tuyên ngôn tư sản, Người đã kết luận đanh thép rằng: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” . Đó là một lôgic biện chứng có sức sống và có giá trị trường tồn, là một tất yếu không thể phủ nhận.