Tăng vai trò của tài chính vi mô
Sắp tới, tổ chức tài chính vi mô được cấp giấy phép thành lập và hoạt động như một tổ chức tín dụng, thành lập dưới hình thức công ty TNHH, được nhận tiền gửi, cho vay bảo đảm bằng tiết kiệm bắt buộc hoặc bảo lãnh của nhóm khách hàng và các nghiệp vụ khác.
Tại hội thảo Tài chính vi mô hỗ trợ phụ nữ giảm nghèo tại Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tổ chức ngày 25/9, nhiều ý kiến cho rằng cần phải có một sự tổng kết về khuôn khổ pháp luật dựa trên nghiên cứu về tác động của hoạt động tài chính vi mô đến sự ổn định của hệ thống tổ chức tài chính và tính chất đặc thù của tài chính vi mô so với các tổ chức tài chính khác.
Chưa đáp ứng đủ nhu cầu
Hiện tại, Việt Nam đã có 4 tổ chức tài chính vi mô chính thức được cấp giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD), con số vô cùng khiêm tốn so với nhu cầu tiếp cận tài chính của người dân vùng nông thôn.
Số liệu thống kê của NHNN cho thấy, tính đến cuối năm 2017, tổng số khách hàng tại 4 tổ chức tài chính vi mô là 438.534 người. Hoạt động của các tổ chức này có sự tăng trưởng khá ổn định với tổng vốn chủ sở hữu đến cuối năm 2017 đạt khoảng 1.376 tỷ đồng, tăng 327,4% so với cuối năm 2016.
Theo các chuyên gia, có thể đó chưa phải con số quá lớn nhưng cho thấy các tổ chức tài chính vi mô đang dần thu hút được khách hàng đúng phân khúc mà mình hướng tới.
Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Kim Anh cho biết hoạt động tài chính vi mô từ lâu đã được biết đến là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống tài chính và là một trong những công cụ xóa đói giảm nghèo hữu hiệu.
Bên cạnh việc cung cấp các dịch vụ tài chính như tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm… cho đối tượng nghèo và thu nhập thấp, các tổ chức tài chính vi mô còn cung cấp các dịch vụ tư vấn, đào tạo để giúp người nghèo, đặc biệt là phụ nữ nghèo có đủ năng lực khởi sự hoạt động kinh doanh, vươn lên làm chủ hoàn cảnh, cải thiện cuộc sống, thoát khỏi cảnh đói nghèo một cách bền vững.
Tuy nhiên, dưới góc độ cơ quan quản lý, NHNN cho rằng hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam vẫn còn một số hạn chế như hoạt động khá manh mún, sản phẩm, dịch vụ chưa đa dạng, các chỉ số bền vững hoạt động và tài chính của các tổ chức tài chính vi mô chưa cao. Đặc biệt, khuôn khổ pháp lý vẫn còn chưa toàn diện, thống nhất…
Các chuyên gia phân tích, hiện nay, nhu cầu vay vốn sản xuất, kinh doanh của hộ gia đình có thu nhập thấp còn khá cao, trong khi việc tăng trưởng nguồn vốn của các chương trình, dự án tài chính vi mô gặp khó khăn do vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước hạn hẹp, nguồn vốn ưu đãi, vốn huy động từ các tổ chức, cơ quan, đoàn thể còn hạn chế.
Vì vậy, nhiều người phải tìm đến những khu vực tài chính vi mô không chính thức như qua bạn bè, người thân, vay cầm đồ… để vay vốn với lãi suất quá cao gây nhiều rủi ro.
Giới chuyên gia cho rằng cần có cơ chế, chính sách khơi thông nguồn vốn cho tài chính vi mô là một kênh cung cấp vốn.
Cần khuôn khổ pháp lý
Ông Phạm Xuân Hòe, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng (NHNN), cho biết NHNN đã và đang có những định hướng phát triển hoạt động tài chính vi mô và tài chính toàn diện.
Ông Hòe chia sẻ hiện nay đã có những ngân hàng sử dụng công nghệ số để cung ứng dịch vụ tài chính cho vùng sâu vùng xa. NHNN cũng sẽ ứng dụng công nghệ 4.0 để tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho người nghèo.
"Thực tế, thời gian qua, một vài tổ chức tài chính vi mô bắt đầu ứng dụng giải pháp công nghệ. Tuy nhiên, do khó khăn về nguồn nhân lực và tài chính khiến việc phát triển các hoạt động tài chính vi mô ứng dụng giải pháp công nghệ còn khiêm tốn", ông Hòe nói.
Ngoài ra, NHNN đang xây dựng hành lang pháp lý tạo điều kiện cho hoạt động tài chính vi mô phát triển bền vững theo quy định tại Luật Các TCTD.
Chẳng hạn, tổ chức tài chính vi mô được cấp giấy phép thành lập và hoạt động như một TCTD, thành lập dưới hình thức công ty TNHH, được nhận tiền gửi, cho vay bảo đảm bằng tiết kiệm bắt buộc hoặc bảo lãnh của nhóm khách hàng và các nghiệp vụ khác, nhưng cần phải tuân thủ quy định về điều kiện, thủ tục cấp phép, quy định về phân loại nợ, trích lập dự phòng và quy định về bảo đảm an toàn của NHNN.
Tuy nhiên, một số ý kiến lo ngại việc xác định hình thức pháp lý bắt buộc của tổ chức tài chính vi mô là công ty TNHH có tạo thuận lợi cho tổ chức tài chính vi mô phát triển và hoạt động hiệu quả ở Việt Nam hay không? "Đây là một mô hình hoàn toàn mới, nên cần phải có hướng dẫn cụ thể", một chuyên gia nói.
Ngoài ra, bà Nguyễn Tuyết Dương, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế (NHNN), tỏ ra băn khoăn với quy định hiện hành về hoạt động, điều kiện về nguồn vốn và quy định về bảo đảm an toàn của tổ chức tài chính vi mô như thế nào thì hợp lý để vừa đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính vừa không tạo gánh nặng cho hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam.
"Với những vấn đề đặt ra như trên, thực tế đã đòi hỏi cần phải có một sự tổng kết về khuôn khổ pháp luật cho hoạt động của tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam. Việc hoàn thiện pháp luật cần phải dựa trên nghiên cứu về tác động của hoạt động tài chính vi mô đến sự ổn định của hệ thống tổ chức tài chính và tính chất đặc thù của tài chính vi mô so với các tổ chức tài chính khác", bà Dương nhận định.