Thái Nguyên: Nâng cao hiệu quả sản xuất nông, lâm nghiệp
(Tài chính) Là tỉnh thuộc vùng Trung du miền núi Bắc Bộ, Thái Nguyên có điều kiện về địa hình, đất đai, thời tiết, khí hậu tạo thuận lợi cho Tỉnh phát triển nông, lâm nghiệp với nhiều loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao. Phát huy lợi thế này trong những năm qua, Thái Nguyên đã đẩy mạnh sản xuất nông, lâm nghiệp gắn với ứng dụng khoa học công nghệ, dịch vụ mang lại hiệu quả kinh tế cao. Thế mạnh này được được Tỉnh tiếp tục phát huy trong năm 2015.
Nâng cao hiệu quả sản xuất nông, lâm nghiệp
Để triển khai thực hiện các kế hoạch mục tiêu trong sản xuất nông, lâm nghiệp, nâng cao hiệu quả của công tác khuyến nông, mới đây UBND tỉnh Thái Nguyên đã tổ chức Hội nghị chỉ đạo sản xuất nông, lâm nghiệp Tỉnh. Theo đó, nhiều giải pháp và phương án sản xuất nông, lâm nghiệp đã được đưa ra nhằm đảm bảo thực hiện thắng lợi mục tiêu đã được lãnh đạo Tỉnh phê duyệt.
Theo báo cáo, vụ xuân năm 2015 toàn tỉnh gieo cấy ước đạt 27.700 ha, bằng 95,5% kế hoạch. Trong đó, diện tích lúa lai ước đạt 7.395 ha, chiếm 16,5% diện tích; diện tích lúa thuần chất lượng cao ước đạt 4.000 ha, chiếm 13,8% diện tích gieo cấy; diện tích ngô ước đạt 3.130ha; khoai lang đạt 750 ha…
Trong lĩnh vực chăn nuôi thú y: đến thời điểm hiện tại vẫn duy trì ổn định tổng đàn trâu, bò đạt khoảng 107.805 con, tăng 2,67% so với cùng thời điểm năm 2014; đàn lợn 530.250 con, tăng 3,97%; đàn gia cầm dự ước 8,62 triệu con, tăng 13,83% so với cùng kỳ. Tình hình dịch bệnh trên địa bàn ổn định, đàn gia súc, gia cầm sinh trưởng phát triển tốt, đến nay chưa phát sinh dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như lở mồm long móng, bệnh tai xanh, bệnh dại chó. Về lâm nghiệp, năm 2015, toàn tỉnh có kế hoạch trồng 5.530 ha rừng, hiện 15,2 triệu cây giống đủ điều kiện xuất vườn; các địa phương trong tỉnh đã thiết kế được 80% diện tích trồng rừng.
Công tác thủy lợi cũng được chú trọng, ngành Nông nghiệp thường xuyên kiểm tra công tác trữ nước của các hồ chứa, nguồn nước của các công trình đập dâng bảo đảm đủ nước gieo cấy vụ xuân và mở nước phục vụ sản xuất theo lịch gieo cấy. Đồng thời bảo vệ và khai thác hiệu quả các công trình thủy lợi cấp nước cho sản xuất và phòng, chống hạn cho lúa xuân…
Theo dự báo của Trung tâm khí tượng thủy văn Trung ương, năm 2015, thời tiết ấm nên đã tác động đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa. Ngành Nông nghiệp có văn bản hướng dẫn tới các địa phương tiến hành kiểm tra, đánh gia mức độ sinh trưởng của các trà lúa, ruộng lúa có nguy cơ cao kết thúc sự sinh trưởng dinh dưỡng sớm…. Vì vậy Ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn phối hợp với các địa phương cử cán bộ kỹ thuật hướng dẫn nông dân tiến hành xử lý bằng các biện pháp chăm sóc như: Giữ nước nông trên mặt ruộng, tạo điều kiện cho lúa đẻ nhánh, bón lượng đạm cao hơn so với các chân ruộng khác từ 10-15% và bón rải làm nhiều đợt nhằm kéo dài thời gian sinh trưởng của lúa. Cùng với đó là chăm sóc, chuẩn bị cây giống phục vụ trồng rừng; các cơ sở sản xuất các giống cá đảm bảo giống các cho sản xuất năm 2015. Thực hiện phòng chống dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi, không để xảy ra dịch bệnh.
Trước tình hình trên, ông Đặng Viết Thuần - Phó Chủ tịch Thường trực UBND Tỉnh chỉ đạo, Sở Nông nghiêp & PTNT lập kế hoach kiểm tra tình hình sản xuất nông nghiệp, nông thôn tại các địa phương để kịp thời chỉ đạo công tác sản xuất nông nghiệp, phòng chống dịch bệnh; thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp; triển khai các nhiệm vụ thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới; triển khai thực hiện đề án hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp cho các vùng đặc biệt khó khăn có đông bà con đồng bào Mông sinh sống. Các đơn vị cung ứng vật tư nông nghiệp đảm bảo chất lượng, số lượng phục vụ sản xuất.
Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ
Bên cạnh việc nâng cao năng suất trong sản xuất nông, lâm nghiệp, trong những năm qua, Thái Nguyên cũng đã đặc biệt quan tâm đến việc ứng khoa học vào chế biến, dịch vụ trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp nhằm nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững và xây dựng nông thôn mới.
Theo báo cáo của Sở Khoa học và Công nghệ Thái Nguyên, việc thực hiện các đề tài, dự án khoa học công nghệ thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản giai đoạn 2011- 2014 trên địa bàn tỉnh đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị sản phẩm nông nghiệp; thúc đẩy chuyển dịch từ nông nghiệp sản xuất truyền thống, tự cung tự cấp sang nông nghiệp sản xuất hàng hóa, góp phần tăng hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp.
Cụ thể, trên lĩnh vực trồng trọt, ngành đã triển khai dự án ứng dụng khoa học công nghệ xây dựng mô hình trồng thâm canh một số giống chè mới theo quy trình VietGAP; thực hiện mô hình trồng một số giống lúa thuần chất lượng cao; mô hình thâm canh giống ngô mới, sản xuất một số giống cây rau màu (khoai tây giống, cà chua). Cùng với đó, việc ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất giống cây trồng sạch bệnh, năng suất, chất lượng tốt, phát triển sản phẩm có lợi thế của địa phương như: cây ăn quả, hoa chất lượng cao, cây dược liệu, các loại rau, lúa đặc sản… điều này giúp nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị sản phẩm nông nghiệp.
Ngoài ta, Sở Nông nghiệp Phát triển nông thôn Tỉnh cũng đã tiến hành áp dụng các biện pháp canh tác kết hợp phòng trừ bệnh hại, trên cây lúa là các mô hình canh tác 3 giảm 3 tăng, 1 phải 5 giảm, SRI; sử dụng các loại phân bón hữu cơ vi sinh, thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học trong quy trình sản xuất các nông sản, ứng dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt VietGAP giúp nông dân tiếp cận và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông sản an toàn. Nhờ áp dụng giống mới và biện pháp canh tác tiên tiến mà năng suất, sản lượng, giá trị cây trồng gia tăng.
Trên lĩnh vực chăn nuôi, tỉnh đã tiến hành ứng dụng khoa học công nghệ nuôi cá trắm đen thương phẩm trong ao, cải tạo đàn trâu bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo, ứng dụng mô hình chăn nuôi gà thịt an toàn theo quy trình VietGAP. Đồng thời, ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực lai tạo giống, truyền giống đưa tỷ lệ bò lai sind đạt 35%, lợn nái ngoại, lợn nái lai đạt 43%...
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động khoa học công nghệ của tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn và tồn tại. Trong đó, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành của tỉnh trong hoạt động khoa học công nghệ còn hạn chế; hoạt động lồng ghép của các dự án khoa học công nghệ với các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội chưa nhiều, hiệu quả chưa cao. Đồng thời, chưa tạo được sự gắn kết cao giữa khoa học – đào tạo, giữa nghiên cứu - ứng dụng, nhân rộng sản xuất, kinh doanh; giữa cơ quan Trung ương với địa phương và giữa Nhà nước – khoa học – doanh nghiệp – người dân. Mạng lưới các tổ chức khoa học công nghệ trên địa bàn tỉnh hoạt động chưa hiệu quả.
Mặt khác, hiện tỉnh vẫn chưa xây dựng và hình thành được các khu nông nghiệp công nghệ cao; vùng sản xuất hàng hóa tập trung còn nhỏ lẻ, phân tán; các cơ sở chế biến, bảo quản nông sản sau thu hoạch chưa nhiều, quy mô nhỏ, chưa có nhiều sản phẩm mang tính cạnh tranh cao. Công tác tuyên truyền phổ biến và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống còn hạn chế về số lượng và chất lượng; Nhiều doanh nghiệp chậm đổi mới công nghệ sản xuất, chủ yếu do khó khăn về tài chính. Nhiều dự án đầu tư, doanh nghiệp vẫn sử dụng công nghệ lạc hậu, không đồng bộ, dẫn đến sản phẩm hàng hóa có sức cạnh tranh thấp. Bên cạnh đó, việc đa dạng hóa nguồn đầu tư tài chính cho khoa học công nghệ còn hạn chế, chủ yếu vẫn dựa vào ngân sách nhà nước.
Nhằm thực hiện tốt công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2015-2020, theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thái Nguyên, trong thời gian tới, ngành sẽ thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ trên các lĩnh vực. Cụ thể, về lĩnh vực trồng trọt, tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ nhằm tăng năng suất và đảm bảo nâng cao chất lượng, tăng giá trị gia tăng của sản phẩm trồng trọt, giảm chi phí đầu vào, giảm giá thành và thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong đó, xây dựng nhiệm vụ khoa học công nghệ tập trung vào việc nghiên cứu chọn tạo và ứng dụng các giống cây trồng năng suất, chất lượng cao, thích ứng rộng với điều kiện đất đai, thời tiết khí hậu của tỉnh đối với các đối tượng cây trồng chủ lực như: cây lúa, ngô, chè, rau, hoa, cây ăn quả.
Trên lĩnh vực bảo vệ thực vật, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng quản lý sâu bệnh tổng hợp, gắn với công tác quản lý phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; chọn giống và quy trình canh tác tổng hợp theo từng loại đối tượng cây trồng. Trên lĩnh vực chăn nuôi, thú y, tăng cường ứng dụng công nghệ sinh học trong chế biến, sử dụng thức ăn chăn nuôi, xử lý môi trường chăn nuôi. Nghiên cứu, ứng dụng thiết kế mẫu chuồng trại, hệ thống xử lý chất thải trong chăn nuôi nông hộ, gia trại, trang trại; dây chuyền công nghệ giết mổ, chế biến sản phẩm chăn nuôi. Đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng quy trình chăn nuôi an toàn sinh học; nghiên cứu vắc xin, thuốc thú y, hóa chất khử trùng tiêu độc, chế phẩm sinh học và quy trình phòng chống dịch bệnh đảm bảo an toàn trong chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Về lĩnh vực thủy sản, nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ về giống, thức ăn, chế phẩm sinh học, quy trình kỹ thuật nuôi trồng, phòng trừ dịch bệnh thủy sản theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng. Nghiên cứu quy trình quản lý, quy trình kỹ thuật sản xuất thủy sản hàng hóa đối với hồ chứa thủy lợi. Trên lĩnh vực lâm nghiệp, triển khai các nhiệm vụ khoa học công nghệ phát triển các giống cây lâm nghiệp sinh trưởng nhanh, cây bản địa làm gỗ lớn, cây lâm sản làm gỗ có giá trị, sức cạnh tranh cao, cây dược liệu, quy trình công nghệ chế biến gỗ, lâm sản.