Tiềm năng phát triển kinh tế số ở Việt Nam

TS. Đỗ Diệu Hương - Viện Kinh tế Việt Nam, NCS. Bùi Nhật Huy - Viện Kinh tế Việt Nam, TS. Nguyễn Thị Hương - Học viện Quản lý giáo dục

Kinh tế số Việt Nam thể hiện nhiều tín hiệu tăng trưởng tích cực và bộc lộ nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, những biến động của kinh tế thế giới cùng một số hạn chế về năng lực nội tại của nền kinh tế và các vấn đề liên quan đến phát triển hạ tầng phục vụ cho kinh tế số đã và đang đặt ra nhiều khó khăn thách thức cho phát triển nền kinh tế số của Việt Nam giai đoạn tới.

Tăng trưởng kinh tế số tại Việt Nam

Kinh tế số Việt Nam năm 2024 tiếp tục tăng trưởng tốt và cho thấy là một trong những động lực cho tăng trưởng kinh tế nói chung. Tốc độ tăng trưởng kinh tế số 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 22,4% gấp 3,5 lần tốc độ tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm (6,24%). Đồng thời, đóng góp của kinh tế số trong GDP ước đạt 18,3% vượt mức đóng góp 16% của năm 2023. Một số lĩnh vực chủ đạo của kinh tế như doanh thu lĩnh vực công nghệ thông tin (kinh tế số ICT) ước đạt 1.928.311 tỷ đồng, tăng trưởng 26% so với cùng kỳ năm 2023.

Trong 6 tháng đầu năm 2024, doanh thu toàn ngành Thông tin và Truyền thông ước đạt 2.030.729 tỷ đồng, tăng 24,5% so với cùng kỳ năm 2023 và đạt 48,7% so với kế hoạch năm (4.166.517 tỷ đồng). Lợi nhuận toàn ngành ước đạt 143.501 tỷ đồng, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2023 và đạt 47,4% so với kế hoạch năm (302.670 tỷ đồng). Các dấu hiệu về quy mô của nền kinh tế số đang thể hiện đà tăng liên tiếp và dần trở thành trụ cột, động lực chính của sự phát triển kinh tế. Về cơ cấu nội ngành của kinh tế số, thương mại điện tử là nhóm ngành có quy mô lớn nhất khi được dự báo đạt 14,7 tỷ USD vào cuối năm 2024 (Modor Intelligence, 2024). Việt Nam được ghi nhận là một trong 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử cao nhất thế giới, dẫn đầu Đông Nam Á với doanh thu và khối lượng bán hàng vượt 310 nghìn tỷ đồng (12,5 tỷ USD), tăng 35% so với năm 2023. Cụ thể một số khía cạch sau:

Xu hướng tài chính và đầu tư cho kinh tế số

Hình 1: Doanh thu đầu tư cho lĩnh vực Fintech tại một số quốc gia Đông Nam Á (Tỷ USD). Nguồn: Statista (2024)
Hình 1: Doanh thu đầu tư cho lĩnh vực Fintech tại một số quốc gia Đông Nam Á (Tỷ USD). Nguồn: Statista (2024)

Hệ thống dịch vụ tài chính cho kinh tế số ở Việt Nam năm 2024 đánh dấu xu hướng tăng trưởng ở nhiều lĩnh vực. Thị trường Công nghệ tài chính (Fintech) Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ hai trong khu vực châu Á, sau Singapore. Dự kiến thị trường Fintech Việt Nam sẽ đạt 18 tỷ USD vào năm 2024. Thị trường Fintech là một trong những thị trường được đánh giá nhiều tiềm năng khi tổng giá trị thanh toán trên nền tảng số của Việt Nam đạt 126 tỷ USD vào năm 2023, tăng 19% so với năm 2022. Một số cấu phần khác như tài chính dành cho bảo hiểm kỹ thuật số và quản lý tài sản kỹ thuật số tuy có quy mô chưa lớn nhưng liên tục tăng trưởng mạnh mẽ trong giai đoạn 2021-2023. Trong đó, giá trị cho vay kỹ thuật số Việt Nam đạt 4 tỷ USD (tăng 36% so với năm 2022), giá trị bảo hiểm kỹ thuật số năm 2023 đạt trên 0,1 tỷ USD (tăng 34% so với năm 2022), giá trị quản lý tài sản kỹ thuật số đạt trên 0,1 tỷ USD (tăng 77% so với năm 2022).

Về đầu tư cho kinh tế số

Hình 2: Đầu tư vào ngành trí tuệ nhân tạo (AI) theo quốc gia. Nguồn: OECD.AI (2024)
Hình 2: Đầu tư vào ngành trí tuệ nhân tạo (AI) theo quốc gia. Nguồn: OECD.AI (2024)

Tổng doanh thu vốn đầu tư cho lĩnh vực fintech nói riêng năm 2024 tại Việt Nam dự kiến sẽ đạt 76.83 tỷ USD (Statista, 2024), cao hơn đa số các nước trong khu vực (Thái Lan đạt 59.70 tỷ USD; Philippines đạt 26.69 tỷ USD; Malaysia đạt 26,69 tỷ USD), chỉ thấp hơn Indonesia (123,3 tỷ USD). Thêm vào đó, tổng doanh thu vào Việt Nam chỉ riêng cho đầu tư vào lĩnh vực Fintech có bước tăng trưởng mạnh mẽ từ năm 2021 đến năm 2024 (trong bối cảnh chịu nhiều tác động từ đại dịch Covid-19), từ 8 tỷ USD lên mức 76,83 tỷ USD. Có thể thấy thị trường tài chính số là một thị trường hấp dẫn tại Việt Nam.

Hình 3: Quy mô thị trường thương mại điện tử bán lẻ tại Việt Nam (tỷ USD) Nguồn: Tác giả tổng hợp từ số liệu thu thập từ Bộ Thông tin & Truyền thông (2024)  
Hình 3: Quy mô thị trường thương mại điện tử bán lẻ tại Việt Nam (tỷ USD)
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ số liệu thu thập từ Bộ Thông tin & Truyền thông (2024)  

Về đầu tư cho các lĩnh vực mới nổi, vốn đầu tư của Việt Nam tăng vào các lĩnh vực như dịch vụ tài chính số, thương mại điện tử, truyền thông số và các lĩnh vực mới nổi như doanh nghiệp B2B, công nghệ y tế, công nghệ giáo dục, công nghệ cao/(AI)... Các lĩnh vực mới nổi chiếm cơ cấu lớn nhất trong tổng vốn đầu tư tư nhân vào Việt Nam năm 2023, do có liên hệ mật thiết đối với hệ thống doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đang là trào lưu của Việt Nam với các lĩnh vực chủ yếu là công nghệ thông tin và tài chính số (Hà Huy Ngọc, 2023). Theo báo cáo của Microsoft (2023), về công nghệ AI, tiềm năng sử dụng AI ngày càng phổ biến khi mà tỷ lệ 88% lao động tri thức tại Việt Nam sử dụng AI tạo sinh, cao hơn mức trung bình toàn cầu là 75%. Theo OECD AI (2024), mức đầu tư trung bình vào AI của Việt Nam từ năm 2012 đến 2023 thấp hơn so với Philippines và Malaysia, mức đầu tư cao nhất của Việt Nam trong lĩnh vực AI chỉ đạt 25 triệu USD năm 2023, trong khi mức cao nhất tại Philippines và Malaysia lần lượt là 65 triệu USD và 92 triệu USD. Mặc dù, thấp so với các nước phát triển như Mỹ ghi nhận mức đầu tư vào AI gần 120 tỷ USD năm 2021, Trung Quốc ghi nhận 50 tỷ USD, mức đầu tư của Việt Nam đã dần có những mốc phát triển hơn qua các năm.

Về thị trường thương mại điện tử

 

Bảng 4: Chỉ số sẵn sàng mạng NRI Việt Nam năm 2023

so sánh với một số quốc gia (134 quốc gia)

 

Chỉ số Sẵn sàng Mạng (NRI)

Công nghệ

Con người

Quản lý công

Tác động

Indonesia

59

37

73

64

75

Ấn Độ

60

41

51

83

56

Việt Nam

56

55

56

74

36

Malaysia

40

38

48

39

41

Thái Lan

42

50

34

46

45

Nguồn: WIPO (2023b)

Thương mại điện tử tại Việt Nam có thể được coi là một trong những thị trường tiềm năng nhất trong khu vực. Giá trị giao dịch thương mại điện tử 6 tháng đầu năm 2024 tiếp tục tăng trưởng mạnh, đạt 13,2 tỷ USD, tăng 28% so với cùng kỳ năm ngoái, nhiều doanh nghiệp sản xuất đã tăng trưởng đột phá nhờ kinh doanh qua thương mại điện tử. Tốc độ tăng trưởng của doanh thu thương mại điện tử tăng liên tục kể từ năm 2021 (năm 2022 tăng 20%, năm 2023 tăng 25%). Quy mô của thị trường thương mại điện tử bán lẻ tại Việt Nam cũng tăng đột phá từ mốc 8,06 tỷ USD vào năm 2018 đến 20,5 tỷ USD vào năm 2023, ngay cả trong bối cảnh các tác động liên quan đến khủng hoảng kinh tế từ dịch bệnh COVID-19, quy mô thị trường Việt Nam vẫn tăng không ngừng, thậm chí có xu hướng đảo chiều tăng lên từ mốc năm 2021.

Thị trường thương mại điện tử của Việt Nam được coi là có tiềm năng trong khu vực do quy mô thị trường rộng lớn, với tổng dân số lên tới hơn 94 triệu người, khoảng 62,76% - 65,95% người có tiêu dùng mua sắm trực tuyến. Tỷ lệ người dân được phổ cập Internet chiếm tới 74% và gần như tuyệt đối ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh với trung bình mỗi người tiêu dùng khoảng 300-320 USD, ở mức cao trong khu vực. Về chi tiêu cho thương mại điện tử tại Việt Nam, triển vọng chi tiêu ở Việt Nam nằm trong nhóm đầu ở khu vực Đông Nam Á (Google, Temasek, Bain&Company, 2023) khi nhóm người dùng có mức chi tiêu cao có quy mô lớn hơn tận 5,4 lần so với nhóm người dùng có mức chi tiêu thấp, mức chi tiêu này còn có xu hướng tăng nhanh hơn mức tăng của GDP bình quân đầu người (năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284 USD, tăng 160 USD so với năm 2022). Trong đó, mức chi tiêu cho trò chơi trực tuyến và gọi xe đang là xu hướng chi tiêu mạnh nhất trong năm 2023, tiếp theo đó là thương mại điện tử và đồ ăn.

Hạ tầng cho kinh tế số của Việt Nam có những chuyển biến tích cực, theo Bảng xếp hạng Chỉ số sẵn sàng kết nối (NRI – Network Readiness Index) do WIPO công bố năm 2023 đánh giá Việt Nam xếp hạng 56 trên 132 quốc gia trong khu vực, đây là hệ thống xếp hạng về khả năng kết nối trên nền tảng số của Việt Nam so với toàn cầu. Xếp hạng của Việt Nam năm 2023 có mức nhảy đà tăng vọt từ vị trí thứ 62 lên vị trí thứ 56 so với toàn thế giới và đứng thứ 2 trong nhóm các quốc gia thu nhập trung bình thấp (xếp sau Ukraine và trên Ấn Độ).

Thành tựu đáng chú ý của Việt Nam nằm ở khả năng tạo ra tác động đáng kể (xếp hạng thứ 36) thông qua năng lực kỹ thuật số mạnh mẽ, giúp Việt Nam trở nên khác biệt so với các nhóm ngang hàng. Điểm mạnh của Việt Nam là khả năng tận dụng các khả năng kỹ thuật số để tạo ra tác động trong nền kinh tế (xếp hạng thứ 27), đặc biệt thông qua xuất khẩu công nghệ cao (xếp hạng thứ 5). Ngoài ra, Việt Nam còn vượt trội trong việc mang lại cho công dân quyền tự do lựa chọn cuộc sống (xếp hạng thứ 1), góp phần nâng cao Chất lượng cuộc sống cao (xếp hạng thứ 36) trong nội phạm vi biên giới.

Triển vọng và thách thức phát triển kinh tế số tại Việt Nam

Kinh tế số Việt Nam đang thể hiện rõ vai trò là một trong những động lực mới cho tăng trưởng kinh tế, các tiềm năng phát triển của kinh tế số Việt Nam cũng ngày càng thể hiện rõ ràng hơn.

Thứ nhất, đứng trước bối cảnh các cuộc khủng hoảng toàn cầu lớn đe dọa đến chuỗi cung ứng hàng hóa và dịch vụ của thế giới như COVID-19 hay cuộc xung đột địa chính trị Nga – Ukraina, cuộc cạnh tranh thương mại Mỹ Trung, khiến cho tăng trưởng các quốc gia trên thế giới đứng trước tình trạng giảm sút và lạm phát gia tăng, tốc độ tăng trưởng kinh tế số Việt Nam vẫn đứng vững và có xu hướng phát triển vượt bậc. Kinh tế số Việt Nam đang thể hiện rõ vai trò là động lực mới cho tăng trưởng kinh tế, trong năm 2023, kinh tế số tiếp tục đà tăng trưởng tốt với mức tăng trưởng 19% với quy mô đạt mức 30 tỷ USD và dần tiến tới mốc dự báo 45 tỷ USD vào năm 2025.

Thứ hai, tiềm năng phát triển kinh tế số của Việt Nam có liên hệ mật thiết với xu hướng đổi mới sáng tạo tại Việt Nam tính đến năm 2023 có hơn 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Theo Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index) năm 2023 của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Toàn cầu (WIPO, 2023a) cho thấy, Việt Nam xếp vị trí 46/132 quốc gia, tăng 2 bậc so với năm 2022. Ngoài ra, Việt Nam là một trong 3 quốc gia có kết quả đổi mới sáng tạo vượt trội hơn so với mức độ phát triển trong 13 năm liên tiếp. Hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam đã tăng từ vị trí thứ 5 lên thứ 3 trong số 6 nền kinh tế hàng đầu Đông Nam Á. Việt Nam cũng là một trong 3 quốc gia có thành tích vượt trội so với mức độ phát triển trong 13 năm liên tiếp (WIPO, 2023b).

Thứ ba, triển vọng phát triển kinh tế số ở Việt Nam cũng thể hiện ở thị trường thương mại điện tử rộng mở. Thị trường thương mại điện tử của Việt Nam được coi là có tiềm năng trong khu vực, do quy mô thị trường rộng lớn, với tổng dân số lên tới hơn 94 triệu người, khoảng 62,76% - 65,95% người có tiêu dùng mua sắm trực tuyến. Tỷ lệ người dân được phổ cập Internet chiếm tới 74% và gần như tuyệt đối ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh với trung bình mỗi người tiêu dùng khoảng 300-320 USD, mức cao trong khu vực. Về chi tiêu cho thương mại điện tử tại Việt Nam, triển vọng chi tiêu ở Việt Nam nằm trong nhóm đầu ở khu vực Đông Nam Á. Truyền thông kỹ thuật số đang phát triển mạnh mẽ của Việt Nam nhờ sự tăng lên nhu cầu trong nước và nhiều công ty địa phương. Trò chơi trực tuyến, đặc biệt là trò chơi trên thiết bị di động, đang phát triển nhanh chóng. Các nhà cung cấp dịch vụ phát trực tuyến nhạc theo yêu cầu tại địa phương cũng tiếp tục nổi bật, ngay cả khi vi phạm bản quyền đặt ra những thách thức đối với việc đăng ký.

Thứ tư, là thanh toán không dùng tiền mặt tiếp tục phát triển tại Việt Nam. Thanh toán kỹ thuật số tiếp tục phát triển ở Việt Nam nhờ sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ, đầu tư từ các ngân hàng thương mại và sự phổ biến rộng rãi của mã QR. Xu hướng này sẽ còn tăng tốc khi Ngân hàng Nhà nước đẩy mạnh dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Chuyển đổi số cũng là một trong những nhiệm vụ được đặt ra trong Chiến lược quốc gia của Việt Nam.

Tuy nhiên, sự phát triển của kinh tế số Việt Nam cũng gặp phải những thách thức:

Một là, khoảng cách về mức độ phát triển đối với thị trường kinh tế số ở các thành phố, đô thị lớn so với các khu vực còn lại (chỉ tập trung hội tụ ở 3 thành phố lớn là Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh và chưa có tính lan tỏa sang các tỉnh thành lân cận).

Hai là, tổng vốn đầu tư tư nhân giảm khoảng 24%, tuy nhiên mức giảm này một phần nguyên nhân cũng là do xu hướng chung của thế giới và khu vực do mức giảm này của Việt Nam so với một số quốc gia Đông Nam Á vẫn là mức giảm nhẹ.

Ba là, hạ tầng cứng phục vụ cho kinh tế số của Việt Nam có những chuyển biến tích cực, tuy nhiên việc phát triển dựa vào nền tảng, nội lực của nền kinh tế số vẫn còn là một thách thức. Quy mô xuất/nhập khẩu các sản phẩm công nghệ hầu hết tập trung ở một số các nhà máy gia công các thiết bị công nghệ được đặt tại Việt Nam của một số tập đoàn lớn quốc tế và có giá trị gia tăng thấp, ít có sự lan tỏa về công nghệ, tri thức.

Bốn là, đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) của Việt Nam vẫn nằm ở mức thấp trong khu vực, đặc biệt trong bối cảnh gặp nhiều thách thức và suy thoái về tài chính trong bối cảnh mới.

Năm là, việc phát triển hạ tầng cho kinh tế số cũng tạo ra thách thức lớn về tiêu thụ tài nguyên và yêu cầu các mô hình sản xuất tuần hoàn, tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế nhằm giảm phát thải và tối ưu hóa nguyên liệu.

Tài liệu tham khảo:

  1. Hà Huy Ngọc (2023), "Phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ở Thành phố Hà Nội", Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, 9(Số 9 (544)), pp. 55-64;
  2. Google, Temasek, Bain&Company (2023), Báo cáo e-Conomy SEA 2023 - Google. https://economysea.withgoogle.com/intl/ALL_vn/report/ (Accessed: 27 November 2023);
  3. Modor Intelligence (2024), Phân tích thị phần và quy mô thị trường bảng hiệu kỹ thuật số Việt Nam-Báo cáo nghiên cứu ngành-Xu hướng tăng trưởng. https://www.mordorintelligence.com/vi/industry-reports/vietnam-digital-signage-market (Accessed: 16 September 2024);
  4. OECD AI (2024), Live data from OECD.AI - OECD.AI. https://oecd.ai/en/data?selectedArea=investments-in-ai-and-data&selectedVisualization=top-countries-in-vc-investments-in-ai-by-industry (Accessed: 16 September 2024);
  5. Statista (2024), Semiconductors - Vietnam Statista Market Forecast, Statista. https://www.statista.com/outlook/tmo/semiconductors/vietnam (Accessed: 20 April 2024);
  6. WIPO (2023a), Global Innovation Index 2023, 15th Edition. https://doi.org/10.34667/tind.46596;
  7. WIPO (2023b), Network Readiness Index – Benchmarking the Future of the Network Economy. https://networkreadinessindex.org/ (Accessed: 22 January 2024).
 
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 9/2024